Có dấu hiệu cho thấy, quốc gia tiếp theo bị tác động bởi khủng hoảng nợ công Hy Lạp rất có thể sẽ là Bồ Đào Nha hoặc Tây Ban Nha. Tây Ban Nha là nền kinh tế lớn thứ tư của châu Âu, khối lượng kinh tế bằng 5 lần Hy Lạp, nếu vấn đề nợ công của Bồ Đào Nha, Tây Ban nha một khi leo thang, sẽ gây ra một cú sốc nặng nề cho châu Âu thậm chí là cho cả thị trường tài chính toàn cầu.
Có người trong nội bộ Liên minh châu Âu EU trách cứ rằng, khủng hoảng nợ Hy Lạp sẽ có thể đặt dấu chấm hết cho đồng EUR. Gần đây, biên lãi CDS (sản phẩm tài chính cho phép trao đổi nợ tín dụng) và lãi suất trái phiếu chính phủ mà Hy Lạp phát hành đều tăng mạnh, hôm 28/4 đã chạm mức cao kỷ lục. Điều này cho thấy, khủng hoảng nợ công ngày một xấu đi và đang lan sang các nước khu vực đồng tiền chung châu Âu Eurozone.
Đồng EUR đã khiến Hy Lạp bị “tê liệt”
Thực chất, khủng hoảng nợ Hy Lạp là một cuộc khủng hoảng đồng EUR, nếu nghiên cứu kỹ hơn có thể thấy, thể chế đồng EUR trước tiên đã khiến các biện pháp điều tiết của Hy Lạp bị “tê liệt”.
Thứ nhất, chính sách tiền tệ đơn nhất đã đẩy nhanh sự gia tăng nợ công của một số nước Eurozone. Theo lý thuyết Keynes, chính sách kinh tế vĩ mô đã lấy chính sách tài chính và tiền tệ làm chủ, việc sử dụng phối hợp lẫn nhau giữa hai chính sách này có thể điều tiết sự mất cân bằng kinh tế. Sau khi thực hành tiền tệ chung, ảnh hưởng của các nước thành viên Eurozone như Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha với chính sách tiền tệ bị suy giảm, chỉ có thể dựa vào số trái phiếu chính phủ đã phát hành và tiêu thụ nhiều hơn để huy động vốn, kích thích kinh tế. Dưới thể chế này, một khi thị trường thiếu lòng tin với viễn cảnh tài chính và nợ công của các nước này, số trái phiếu chính phủ phát hành dựa vào tín dụng quốc gia sẽ cần phải chi trả mức lãi suất cao hơn, từ đó chính phủ phải cõng nợ cao hơn. Khi một nước có thể áp dụng chính sách tài chính để kích thích kinh tế, nếu lại xuất hiện sự mất cân bằng kinh tế, sẽ khiến phạm vi và mức độ mất cân bằng không ngừng rộng và sâu hơn, cuối cùng rơi vào khủng hoảng. Cơ cấu khu vực tiền tệ chung cũng tăng thêm sự bất cân bằng về phát triển kinh tế nội bộ khu vực Eurozone.
Thứ hai, chính trị chủ quyền độc lập đã quyết định sự khác biệt mang tính quốc gia của chính sách tài chính. Do sự phát triển kinh tế của các nước khu vực Eurozone không cân bằng, thêm vào đó định hướng lợi ích của các nước khác nhau, nên các nước thành viên Eurozone đã thực thi chính sách tài chính không giống nhau theo tình hình phát triển kinh tế của nước mình. Chẳng hạn như Hy Lạp, tình hình kinh tế của nước này đã quyết định chính sách thâm hụt là con đường duy nhất để Hy Lạp thoát ra khỏi khủng hoảng tài chính quốc tế. Cũng giống với Hy Lạp, trước khi gia nhập khu vực Eurozone, một số nước vốn thi hành lãi suất cao - bị buộc phải chấp nhận chính sách lãi suất thống nhất của khu vực Eurozone, mức độ lãi suất sau khi hạ thấp sẽ kích thích việc đầu tư nhà ở nội địa Hy Lạp gia tăng, hình thành bong bóng bất động sản. Khi giá nhà tăng vọt, hiệu ứng tài sản đã thúc đẩy tín dụng tiêu dùng gia tăng hơn, có tác dụng lôi kéo mạnh mẽ việc bảo đảm phát triển kinh tế quốc gia. Dưới tác động của khủng hoảng tài chính, thị trường bất động sản sụp đổ, nhu cầu tiêu dùng cũng sẽ giảm theo, gây ra suy thoái kinh tế. Chính phủ phải đứng trước sự lựa chọn chính sách kinh tế vĩ mô để kích thích kinh tế, khi chính sách tiền tệ không thể độc lập lựa chọn, chính sách tài chính để kích thích kinh tế đã gây ra sự lựa chọn duy nhất, thông thường trong thời kỳ hậu khủng hoảng kinh tế, trọng điểm của chính phủ là áp dụng một loạt gói kích cầu, hỗ trợ nền kinh tế nội địa phục hồi trong khủng hoảng. Cuối cùng khiến thâm hụt tài chính gia tăng đáng kể, tốc độ tích lũy trái phiếu cũng tăng theo, cùng với sự hạ thấp xếp hạng tín dụng nợ của các cơ quan xếp hạng tín dụng, chi phí huy động vốn từ trái phiếu chính phủ sẽ tăng theo, gây ra khủng hoảng nợ công.
Kế hoạch viện trợ chưa chạm tới bản chất
Từ kế hoạch viện trợ mà các nước đã đề ra cho thấy, kế hoạch viện trợ chưa chạm tới bản chất của khủng hoảng đồng đồng EUR. Kế hoạch viện trợ lần này nhìn chung có hai đặc điểm, một là tính nhất trí cao độ mà các chủ thể lợi ích khác nhau của khu vực Eurozone đã thể hiện trước khủng hoảng. Khoản tiền 750 tỷ EUR trong gói viện trợ lần lượt lấy từ ba chủ thể lợi ích, trong đó, 440 tỷ EUR sẽ do thỏa thuận tương hỗ giữa các nước khu vực Eurozone cung cấp trong thời gian 3 năm; 60 tỷ EUR sẽ lấy “Điều ước Lisbon” của EU làm cơ sở, do EC huy động từ thị trường tài chính; Quỹ tiền tệ quốc tế IMF sẽ cung cấp 250 tỷ EUR. Các nước Eurozone, Ngân hàng trung ương châu Âu ECB, IMF mỗi bên đều có cơ sở lợi ích của mình, gói viện trợ này cho thấy, khu vực Eurozone đang đứng trước nguy cơ và thách thức chưa từng có và cũng cho thấy, quyết tâm bảo vệ đồng EUR của các nước châu Âu và các tổ chức của EU. Hai là liên minh kinh tế của khu vực Eurozone đã bắt đầu vượt quá bản thân chế độ tiền tệ, bắt đầu kéo dài theo chính sách tài chính của các quốc gia có chủ quyền độc lập. Nhưng sự độc lập về chủ quyền chính trị của của các nước Eurozone về cơ bản đã quyết định chính sách tiền tệ của mình.
Hiện nay, EU đang đứng trước hai sự lựa chọn khó khăn, nếu hy vọng giải quyết vấn đề cơ chế trong quá trình phát triển, việc cứu trợ hiện nay sẽ chỉ dừng lại ở mức “trị ngọn”, và việc chờ đợi những lợi thế của phục hồi kinh tế toàn cầu để che đậy vấn đề cơ chế đồng EUR chỉ có thể là một cách để lựa phỉnh mọi người; phải tiến hành cải cách về bản chất cho cơ chế đồng EUR, tránh chạm đến vấn đề nhạy cảm như lợi ích cốt lõi của đồng EUR, chủ quyền chính trị của các nước Eurozone, đồng EUR thực sự đang đứng trước một sự lựa chọn rất khó khăn. Về điểm này, e rằng, ngay cả nội bộ EU cũng thiếu kết luận có hiệu quả nhất trí thật sự.
(Vitinfo)
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Chuyển nhượng, cho thuê hoặc hợp tác phát triển nội dung trên các tên miền:
Quý vị quan tâm xin liên hệ: tieulong@6vnn.com