Bộ Công Thương đã đánh giá một số ngành công nghiệp nhẹ tháng 7 và 7 tháng đầu năm như sau:
- Ngành Dệt may: Tình hình suy thoái/suy giảm kinh tế của các nền kinh tế lớn đồng thời là thị trường xuất khẩu chủ lực của ngành dệt may như Hoa Kỳ, EU chưa có dấu hiệu phục hồi rõ ràng nên nhu cầu tiêu dùng ở những thị trường này vẫn chưa được cải thiện theo hướng tích cực. Kim ngạch xuất khẩu tháng 7 của ngành tiếp tục giảm 4,4% so với tháng 7/2008, tính chung 7 tháng chỉ đạt 5,02 tỷ USD, bằng 47,1% kế hoạch năm và giảm 1,0% so với cùng kỳ.
Đối với thị trường trong nước, mặc dù ngành dệt may đã tích cực triển khai nhiều chương trình xúc tiến thương mại với nhiều hệ thống siêu thị bán hàng trực tiếp, mở rộng kênh phân phối cho các hộ bán lẻ, bán sỉ để đưa hàng về các vùng nông thôn... nhưng tồn kho một số mặt hàng chủ yếu của ngành gồm vải dệt và sợi các loại, quần áo may sẵn vẫn khá cao so với cùng kỳ (tồn kho vải và sợi các loại tăng khoảng 36% so với cùng kỳ; tồn kho quần áo may sẵn tăng gần 50%). Do vậy, các doanh nghiệp trong ngành chỉ sản xuất cầm chừng, sản xuất vải các loại 7 tháng giảm 2,7%, quần áo may sẵn giảm 9,2% so với cùng kỳ năm trước.
Do vậy, để giải quyết việc làm và đời sống cho người lao động, đảm bảo hoàn thành tối đa chỉ tiêu xuất khẩu năm (10,5 tỷ USD), ngành dệt may cần tiếp tục tìm kiếm đơn hàng xuất khẩu ở những thị trường khác như Nam Mỹ, Châu Phi, đồng thời, cơ cấu lại tổ chức, rà soát và tiết giảm chi phí để hạ giá thành sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm và thương hiệu của doanh nghiệp nhằm đón đầu và phát triển bền vững trong các năm tiếp theo sau giai đoạn khủng hoảng kinh tế hiện nay.
- Ngành Da giầy: Sản xuất giầy, dép các loại tháng 7/2009 ước đạt 29,9 triệu đôi, tăng 12,3% so với tháng 6 và tăng 9,5% so với tháng 7/2008. Nhập khẩu nguyên phụ liệu cho sản xuất xuất khẩu 7 tháng giảm xuống 21,5% so với cùng kỳ nên kim ngạch xuất khẩu 7 tháng ước đạt 2,46 tỷ USD, chỉ đạt 48,2% so với mục tiêu đặt ra (5,1 tỷ USD). Tuy nhiên, xuất khẩu giầy, dép sang thị trường Hoa Kỳ tăng khoảng 9% so với cùng kỳ năm trước. Hơn nữa, do năng lực sản xuất tại EU sụt giảm (khoảng 20%) làm nhu cầu nhập khẩu và tiêu thụ tăng khoảng 5,3% chính là cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam đẩy mạnh sản xuất các mặt hàng có thế mạnh và phù hợp với sở thích của người Châu Âu.
- Ngành Giấy:Để chuẩn bị phục vụ năm học mới, tháng 7 sản xuất giấy đã được đẩy mạnh hơn, ước đạt 192 nghìn tấn, tuy chỉ bằng 97,4% so với tháng 7/2008 nhưng tăng 7,7% so với tháng 6. Tiêu thụ giấy tăng đáng kể, nhất là đối với sản phẩm giấy viết, đạt 90% kế hoạch tiêu thụ. Lượng tồn kho giấy các loại đã giảm, khoảng gần 40 nghìn tấn. Như vậy, ngành giấy đã có dấu hiệu phục hồi từ giữa tháng 4 và những dấu hiệu tích cực này có thể đảm bảo cho sản xuất và tiêu thụ giấy đạt kế hoạch năm đề ra. Tuy nhiên, khó khăn mới nảy sinh là giá nguyên liệu giấy nhập khẩu sau một thời gian dài giảm đã có dấu hiệu tăng trở lại.
Để đảm bảo nguồn nguyên liệu trong nước, tháng 7/2009, trong công tác kế hoạch lâm sinh dài hạn Tổng công ty Giấy Việt Nam đã thực hiện trồng rừng mới 478 ha, đạt 77% kế hoạch năm, tăng 22,6% so với cùng kỳ năm trước.
- Ngành Thuốc lá: Sản xuất ổn định và tiếp tục tăng trưởng. Sản phẩm thuốc lá bao các loại tháng 7 ước đạt 432,9 triệu bao, tăng 2,8% so với tháng 7/2008, tính chung 7 tháng ước đạt 2.859 triệu bao, tăng 13,5% so với cùng kỳ năm trước. Riêng Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam 7 tháng ước đạt 1.731 triệu bao, tăng 14,5% so với cùng kỳ năm trước. Thời tiết nắng nóng ảnh hưởng nhiều tới tiêu thụ thuốc lá nên tháng 7 ước đạt 270 triệu bao, giảm 2,2% so với tháng 6. Tháng 7/2009, ngành thuốc lá đã xây dựng nhu cầu sử dụng nguyên liệu và nhu cầu xuất khẩu thuốc lá cho năm 2010 làm cơ sở xây dựng kế hoạch đầu tư gieo trồng nguyên liệu vụ mùa 2010.
Nghị định 43/2009/NĐ-CP của Chính phủ về việc đưa thuốc lá nhập lậu vào danh mục hàng cấm kinh doanh sẽ là khuôn khổ pháp lý tạo điều kiện cho sản xuất trong nước trong thời gian tới. Vì vậy, ngành sản xuất thuốc lá cần nghiên cứu định hướng sản xuất các mặt hàng thuốc lá có thể thay thế thuốc lá nhập lậu khi Nhà nước đẩy mạnh chống buôn lậu.
- Ngành bia, rượu, nước giải khát: Sản lượng bia của cả nước tháng 7/2009 ước đạt 178 triệu lít, giảm 2,2% so với tháng 6 và giảm 7,4% so với tháng 7/2008, tính chung 7 tháng ước đạt 1.096,2 triệu lít, tăng 4,9% so với cùng kỳ. Không như những năm trước, kể cả trong mùa hè oi bức mà tiêu thụ các loại bia, rượu, nước giải khát vẫn liên tục giảm, nhiều doanh nghiệp khó có thể đạt được kế hoạch đề ra. Tuy nhiên, riêng 2 Tổng Công ty Bia - Rượu - Nước giải khát Hà Nội và Sài Gòn sản lượng vẫn đạt tốc độ tăng trưởng cao (20,8% và 18,9%). Trong thời gian tới, các doanh nghiệp trong ngành cần phải tích cực đẩy mạnh hơn nữa công tác khuyếch trương thương hiệu, làm tốt công tác thị trường, đặc biệt là tại các khu du lịch để tăng sản lượng tiêu thụ, đảm bảo được kế hoạch sản xuất.
- Ngành sữa: Tiếp tục gặp khó khăn do giá sữa nhập khẩu tăng cao. Sản xuất sữa bột tháng 7 ước đạt 4,1 nghìn tấn, tăng 41% so với tháng 6 nhưng vẫn giảm 12,2% so với tháng 7/2008, tính chung 7 tháng ước đạt 22,5 nghìn tấn, giảm 16% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, nhập khẩu sữa và các sản phẩm từ sữa tháng 7 vẫn tăng 1,7%. Vì vậy, cần phải có giải pháp cụ thể về thuế suất thuế nhập khẩu sữa và nguyên liệu sữa, đồng thời, kiểm soát chặt chẽ chất lượng sản phẩm sữa để thúc đẩy sản xuất trong nước và tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp trong ngành cũng như nông dân nuôi bò sữa.
Là "công xưởng của thế giới" lâu nay song chi phí đắt lên, cộng với những rủi ro nội tại, Trung Quốc mất dần sự hấp dẫn trong mắt nhà đầu tư quốc tế.
Nhu cầu sản phẩm công nghiệp có xu hướng tăng trở lại trong khi tồn kho vẫn tiếp tục ở mức cao, giá trị gia tăng thấp là những gam màu chính trong bức tranh sản xuất công nghiệp nửa đầu năm 2014.
Mặc dù qua mấy lần lấy ý kiến cho dự thảo thông tư về điều kiện nuôi chim yến nhưng vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau giữa nhà quản lý và hộ nuôi chim.
Giá thịt lợn hơi của Việt Nam đang thấp nhất trong khu vực khiến người chăn nuôi lợn rơi vào cảnh khốn đốn. Nguy cơ phá sản hàng loạt đang hiện hữu với người chăn nuôi.
Sau tết, tình hình dịch heo tai xanh, cúm gia cầm đã xảy ra ở một số địa phương trên cả nước, gây tâm lý e ngại sử dụng thịt heo khiền sức mua các loại thịt heo và gia cầm giảm mạnh. Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn vừa công bố hôm 25-3, chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất thịt heo trong quí 1-2013 giảm 20% so với quí 1-2012.
Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, giá trị sản xuất công nghiệp trong tháng 7 tiếp tục có xu hướng gia tăng. Đây cũng là tháng thứ 6 liên tiếp tốc độ gia tăng tháng sau luôn cao hơn tháng trước. Đặc biệt, trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu, ngành công nghiệp nhiều nước vẫn đang suy thoái thì đây được xem là tín hiệu tích cực.
Để ngành dệt may vượt qua giai đoạn khó khăn này, các doanh nghiệp cần tiếp tục duy trì thị trường truyền thống, chú trọng khai thác thị trường nội địa, chủ động tìm kiếm những thị trường xuất khẩu mới, tăng dần tỷ lệ nội địa hóa, phát triển nguồn nguyên phụ liệu, giải quyết vấn đề mẫu mã, giá thành để chủ động đáp ứng nhu cầu của khách hàng trong nước cũng như xuất khẩu.
Từ năm 2009, ngoài việc công bố chỉ tiêu giá trị sản xuất công nghiệp theo giá cố định (GTSXCN giá CĐ), Tổng cục Thống kê (Bộ Kế hoạch- Đầu tư) sẽ công bố thêm chỉ tiêu IIP để cung cấp rõ hơn về sự phát triển của các ngành kinh tế, theo sản phẩm/mặt hàng. Chỉ số phát triển sản xuất công nghiệp (IIP) được dựa trên giá trị tăng thêm của từng ngành công nghiệp.
Trái ngược với “không khí ảm đạm” của những tháng cuối năm 2008, bước sang đầu quý 2/2009, thị trường giấy đã có những chuyển biến theo hướng tích cực.
Việc khởi công xây dựng khu công nghiệp hỗ trợ Việt Nam – Nhật Bản số 1 vào cuối tháng 4 vừa qua đang được kỳ vọng sẽ đặt thêm những viên gạch cụ thể để phát triển ngành công nghiệp phụ trợ, một trong những điểm yếu của công nghiệp Việt Nam hiện nay.
Sản xuất giấy quý I-2009 tăng 11% so với quý IV-2008, nhưng so với cùng kỳ năm trước chỉ bằng 56%. Sản xuất tháng 4-2009 cao hơn tháng 3 và bằng 67% so với tháng 4-2008. Tồn kho giấy đã giảm mạnh và trở lại mức bình thường.
Sản xuất giấy quý I-2009 tăng 11% so với quý IV-2008, nhưng so với cùng kỳ năm trước chỉ bằng 56%. Sản xuất tháng 4-2009 cao hơn tháng 3 và bằng 67% so với tháng 4-2008. Tồn kho giấy đã giảm mạnh và trở lại mức bình thường.