Tin kinh tế, tài chính, đầu tư, chứng khoán,tiêu dùng

IV. Mối quan hệ của các chính sách giá xuất khẩu đối với giá nội địa

IV.   MỐI QUAN HỆ CỦA CÁC CHÍNH SÁCH GIÁ XUẤT KHẨU ÐỐI VỚI GIÁ NỘI ÐỊA     
(Relation of Export to Domestic Price Policies)

Phương diện thứ hai của chính sách giá đối với nhà quản lý tiếp thị xuất khẩu là một mối liên hệ của chính sách giá xuất khẩu đối với chính sách (hoặc các chính sách) giá nội địa của công ty. Nhà quản trị phải quyết định các mức giá cao hơn, bằng hoặc thấp hơn giá nội địa. Có những lập luận thậm chí đối nghịch nhau để chúng ta chọn lựa.

1. Giá xuất khẩu thấp hơn giá nội địa    
(Export Prices Lower than Domestic)

Có một lý luận cho rằng giá xuất khẩu thấp hơn giá nội địa là do sản phẩm của nhà máy có lẽ ít nổi tiếng ở nước ngoài hơn là trong nước. Ðể đảm bảo sự chấp nhận của thị trường và sức mua ban đầu, mức giá cả thấp nhất có thể xây dựng được nên được đưa ra chào. Hơn nữa, có lập luận cho rằng nhà xuất khẩu nên chịu các chi phí bổ sung như vận chuyển, bảo hiểm hàng hải và thậm chí trong một vài trường hợp cá biệt có thể chịu cả thuế nhập khẩu .

Những người khác tin rằng giá xuất khẩu nên được hạ thấp vì các đối thủ cạnh tranh nước ngoài có thể sản xuất rẻ hơn bởi chi phí nhân công thấp, sự trợ giúp của chính phủ hoặc là những lợi thế khác mà họ được hưởng. Vẫn còn một lý luận khác dẫn đầu trong việc ủng hộ cho việc định giá xuất khẩu thấp đó là sự hấp dẫn của việc gia tăng doanh số bán để trợ giúp cho việc tập trung sản xuất và các chi phí  cần thiết.

Có một lý thuyết xa hơn là nhà máy phải gánh chịu một số chi phí cần thiết nhất định trong giai đoạn đầu mà hoạt động kinh doanh của họ phải gánh chịu và không tránh khỏi. Vì vậy, mỗi hoạt động kinh doanh xuất khẩu thì nằm trong ý nghĩa kinh doanh thêm và không nên tính chi phí với gánh nặng này.

Một trở ngại tiềm năng có thể xảy ra trong khi theo đuổi chính sách này đó là nhà xuất khẩu có thể bị cho là phá giá. Vì vậy, nhà xuất khẩu nên chú ý đến phản ứng của chính phủ ở các thị trường xuất khẩu.

2. Giá xuất khẩu cao hơn giá nội địa    
(Export Prices Higher than Domestic)

Một trong các lập luận phổ biến hàng đầu trong việc ủng hộ giá xuất khẩu cao hơn giá nội địa là do sự gia tăng chi phí của việc thiết lập tổ chức để thâm nhập các hoạt động xuất khẩu là cần được xem xét. Thông thường chi phí bán hàng xuất khẩu có thể cao hơn ở thị trường nội địa do có nhiều thủ tục phức tạp, bất đồng trong ngôn ngữ, sự khác nhau về tập quán thương mại và sự khác nhau về các yêu cầu pháp lý, thị hiếu khách hàng ở các thị trường nước ngoài. Có sự đầu tư thêm một cách thường xuyên và các chi phí bổ sung trong việc chuẩn bị các tài liệu đặc biệt và các hình thức đóng gói, chuẩn bị và sửa đổi sản phẩm. Có người cho rằng chi phí của việc mở rộng tín dụng và tài trợ với các nhà bán hàng ở nước ngoài làm giảm tổng số vốn đầu tư và tăng chi phí. Một vài nhà máy và các nhà xuất khẩu cảm thấy sự rủi ro gia tăng trong việc kinh doanh ở nước ngoài đối với các điều kiện chính trị và kinh tế không ổn định, và mức độ rủi ro này nên được đền bù cho hình thức định giá cao.

3. Giá xuất khẩu bằng giá nội địa    
(Export Prices on a Par with Domestic Prices)

Chính sách mang giá nội địa vào thị trường xuất khẩu được tán thành rất đông đảo, đặc biệt đối với các xí nghiệp, các nhà sản xuất lần đầu tiên thâm nhập thị trường thế giới. Những người này chưa thăm dò một cách đầy đủ các điều kiện khác nhau mà họ sẽ gặp phải trên thị trường thế giới.  Có nhiều lập luận ủng hộ chính sách này. Nó tạo điều kiện cho nhà sản xuất để định giá xuất khẩu mà chi phí và kinh nghiệm ở thị trường nội địa được chỉ ra là cần thiết và công bằng. Nó tạo cho nhà xuất khẩu cảm giác an toàn khi thâm nhập thị trường thế giới khi các cơ hội nghiên cứu tiếp thị, sự thông hiểu về các điều kiện cạnh tranh và những kinh nghiệm trước đó vẫn còn thiếu. Nó xua tan nổi sợ hãi mà nhà sản xuất có thể bị dính líu đến các quy định chống phá giá hiện có tại nhiều nước trên thế giới. Nó cũng là một chính sách dễ dàng được thay đổi khi nhà sản xuất gặt hái được những kinh nghiệm và đạt được một sự hiểu biết sâu sắc hơn  về thị trường xuất khẩu. Phương pháp này dễ thực hiện, nhưng có thể không thích hợp nếu giá nội địa thấp, vì các hoàn cảnh bất thường như có sự cạnh tranh mạnh mẽ. Trước khi tiến hành phương pháp này nhà quản trị nên nắm chắc rằng trong thực tế, giá nội địa là một giá phổ biến, bình thường. Việc định giá xuất khẩu giống như giá nội địa được giả định rằng các đối tượng là giống nhau. Cách định giá như vậy sẽ được công nhận, tuy nhiên các đối tượng của công ty và các điều kiện thị trường có thể không giống nhau qua nhiều thị trường khác nhau.

4. Ðịnh giá có sự chênh lệch (Differential Pricing)    

Do các điều kiện cạnh tranh, thị trường và các yếu tố môi trường khác không giống nhau từ một thị trường này đối với một thị trường khác, vấn đề có thể được đặt ra là cách định giá xuất khẩu khác nhau đối với mỗi thị trường. Có nhiều điều đã được đề cập trong các quyển sách kinh tế học về các hiệp ước quốc tế nói về các điều kiện theo đó có các sự chênh lệch về giá cả xảy ra giữa các thị trường. Những điều kiện quan trọng hàng đầu là:

            (1) Sự co giãn đường cầu khác nhau .
            (2) Việc phân chia các thị trường một cách chính xác.

Các sự co giãn khác nhau của đường cầu là cần thiết đối với nhà xuất khẩu để định giá ở một thị trường này cao hơn giá ở một thị trường khác. Sự co giãn vì giá cao thì sẽ đưa đến giá thấp. Sự không co giãn về giá thì nên định giá cao.

Một điều kiện cần thiết khác cho việc định giá cao là các thị trường có liên quan phải được phân chia một cách hiệu quả. Trừ phí, thuế quan chi phí vận chuyển hoặc chi phí tái xuất thì cao hơn sự chênh lệch của giá hoặc trừ phi các sự giới hạn khác đối với lưu thông tự do của hàng hóa xuyên qua các quốc gia. Tuy nhiên, sản phẩm được bán ở mức giá thấp có thể tự nó tìm đường đến các thị trường có giá cao. Trong trường hợp nơi nào mà giá xuất khẩu cao hơn giá nội địa nhà xuất khẩu phải bảo đảm chống lại việc định giá quá cao đến nỗi mà khách hàng nước ngoài hoặc các đại diện của mình bị hấp dẫn với cách thâm nhập vào thị trường nội địa và tự họ đảm nhận nhiệm vụ công tác xuất khẩu.

Ðó là trường hợp Công ty Minotta, một công ty sản xuất cameras hàng đầu của Nhật Bản tự phát hiện vào đầu thập niên 1970. Do sự chuyển tải từ Hong Kong cameras đã được bán qua kênh không chính thức bao gồm bán sĩ và bán lẻ đến các khách hàng ở Tây Ðức với một giá thấp hơn rất nhiều so với các kênh phân phối thông thường. Rõ ràng một số nhà buôn sỉ của Hong Kong đã mua trực tiếp các sản phẩm từ Nhật và đã trở thành các nhà xuất khẩu sang thị trường Tây Ðức.

Ðây là vấn đề giá hàng hóa được tạo nên bởi các nhà nhập khẩu song song hoặc được gọi là thị trường chợ đen. Nêú người mua hàng ở một nước có thể mua được giá thấp hơn ở một nước khác sẽ là phần thưởng đối với khách hàng ở thị trường có giá thấp hơn bằng cách chuyển hàng hóa đến thị trường có giá cao để tạo ra lợi nhuận. Hiển nhiên, các nhà phân phối và bán hàng của công ty xuất khẩu ở những nước có giá cao sẽ khiếu nại về sự nhập khẩu không chính thức như vậy, vì chúng tạo ra sự tổn thất trong doanh số bán đối với họ. Luật pháp của nhiều nước kể cả liên hiệp Châu Âu và Nhật Bản khuyến khích những sự nhập khẩu song song như một phương tiện kích thích cạnh tranh và buộc nhà phân phối bán hàng ra khỏi quốc gia của họ có thể bị xem là vi phạm luật pháp (nhưng chỉ trong Liên hiệp Châu Âu mà thôi)

Các nhà xuất khẩu nghiên cứu việc định giá có sự chênh lệch khác nhau cũng phải chú ý  đến các yếu tố khác kể cả sự cạnh tranh bên trong ở mỗi thị trường, tỷ lệ chi phí biến đổi/ chi phí cố định  của sản phẩm công ty, sự ổn định của đường cầu trong thị trường nội địa và chiến lược marketing tổng thể được sử dụng.

Những lý do cho việc theo đuổi chính sách định giá có sự chênh lệch thường được đưa ra do có sự khác nhau về chiến lược tiếp thị giữa thị trường này và thị trường khác. VD: ở một quốc gia sự phân phối được mở rộng gấp đôi với sự quảng  cáo mạnh mẽ có thể đi kèm với việc định giá thấp để phục vụ cho thị trường đại chúng. Ở một quốc gia khác kênh tiếp thị trực tiếp với sự quảng  cáo ít có thể lôi kéo cho việc định giá cao trên mỗi đơn vị sản phẩm để phục vụ cho một thiểu số người có thu nhập cao.

Việc xem xét dãy sản phẩm cũng có thể đóng góp đáng kể đối với việc định giá có sự chênh lệch khác nhau. VD: cái gọi là việc xem xét đầy đủ dãy sản phẩm  có thể trở nên quan trọng, nếu khách hàng có ý định mua một số sản phẩm nào đó từ một nguồn chung, nhà xuất khẩu đó không có tất cả các sản phẩm trong danh mục hàng hóa được đặt hàng ở trong hệ sản phẩm dường như gặp khó khăn trong việc bán một loại hàng trong cả hệ sản phẩm. Người mua có thể viện lý do: tại sao tôi phải tách đơn hàng của mình cho nhiều nhà cung cấp trong khi tôi có thể đặt hàng cho tất cả yêu cầu của tôi đối với chỉ một nhà cung cấp và cùng một lúc. Như vậy vừa tiết kiệm thời gian lẫn công sức. Theo những điều kiện này nó có thể cần thiết đối với người bán hàng bao gồm một số hàng hóa ở trong một dãy sản phẩm nó không thể bán với giá cao như ở một số thị trường khác. Như vậy, giá cả của nhóm hàng hóa khác nhau giữa các quốc gia.

Việc định giá dãy sản phẩm ở một ý nghĩa khác nhau cũng có thể đóng góp đối với việc định giá đa dạng của một số sản phẩm trong dãy sản phẩm. Các sản phẩm ở trong dãy thường phải được định giá để có mối liên hệ hợp lý giữa chúng với nhau. VD: các loại máy kéo khác nhau và có các đặc tính khác nhau có thể có một mức độ thay thế lẫn nhau. Tuy nhiên, có một mức độ mà không có sự thay thế đó là sự đánh giá bởi khách hàng cũng như đối với mức độ một sản phẩm này thì tốt hơn hoặc thích hợp hơn sản phẩm khác nên áng chừng một cách phù hợp đối với sự chênh lệch của giá cả. Vì  nhiều nhóm khách hàng ở trong nhiều thị trường  khác nhau có thể đánh giá sản phẩm một cách khác nhau những sự khác nhau thích hợp trong giá cả của các loại hàng hóa trong dãy sản phẩm sẽ khác nhau. Như vậy nó có thể được xem xét một cách thích đáng cho các loại giá cả của những sản phẩm khác biệt khác nhau giữa quốc gia này và quốc gia khác.

Chính sách định giá sản phẩm cũng có thể được dựa trên những cơ sở cơ hội. Trong các ngành công nghiệp đòi hỏi vốn đầu tư cố định lớn, sẽ có lợi khi có những thời kỳ thừa công suất do sự dao động nhất thời của đường cầu, để hạ giá sản phẩm ở các thị trường nước ngoài nếu những doanh số như vậy đóng góp vào chi phí cố định.

Mặc dù sự lựa chọn và khảo sát các thị trường tiếp thị đồng nhất đòi  hỏi các chiến lược tiếp thị khác nhau, có một xác suất là một xí nghiệp có thể cố gắng để chọn lựa các mục tiêu trên thị trường giống nhau ở trong các khúc thị trường khác nhau ở mỗi nước. VD: một nhà sản xuất có thể tạo ra một sản phẩm hấp dẫn đối với những người có vị trí xã hội hoặc kinh tế nhất định nào đó không phân biệt quốc tịch. Các thị trường dân tộc  có thể được phân khúc trên cơ sở thu nhập, giáo dục, cỡ gia đình, thời gian rỗi ... và những khúc thị trường của Canada, Demark, France, Germany, Australia, Japan và một số nước khác có những động cơ hoặc nhu cầu giống nhau, chiến lược tiếp thị và các sản phẩm tiêu chuẩn hóa có thể thỏa mãn ở các thị trường này. Những yêu cầu của khách hàng ở một số khúc thị trường cho những sản phẩm như đồ dùng gia đình, dịch vụ hàng không, xe hơi có thể giống nhau ở nhiều phương diện. Tương tự, chiến lược tiếp thị, kể cả giá cả có thể giống nhau.

Mặt khác, các cơ hội lớn nhất cho sự tăng trưởng tồn tại ở các khúc thị trường mới hoặc đang phát triển nó chưa được với tới hoặc phục vụ một cách đầy đủ ở trong quá khứ. Trong thực tế, một trong các mục tiêu được trình bày thường xuyên của giá cả có sự chênh lệch là để thâm nhập vào thị trường mới hoặc hấp dẫn một tầng lớp khách hàng mới. Mục tiêu này đôi khi có thể đạt được bởi sự chọn lọc và các kênh tiếp thị bổ sung nó có thể cung cấp một hệ chức năng khác nhau và đạt đến các khúc thị trường bổ sung. Một kênh như vậy dường như để có một cơ cấu chi phí khác nhau đối với các kênh khác và điều này sẽ đòi hỏi một biên tế điều hành khác nhau. Biên tế điều hành được đòi hỏi bởi các kênh tiếp thị có thể khác nhau do nhiều lý do kể cả chi phí phát triển thị trường (VD: nhu cầu của việc quảng cáo mạnh mẽ ở một số khu vực, nơi khác lại nhẹ nhàng hơn). chi phí nhân công hay các biên tế, cung cấp đối với các hãng marketing bởi đối thủ cạnh tranh. Giá cả của nhà sản xuất cũng như giá cả của nhà tiếp thị trung gian hoặc cả hai nên khác nhau đối với giá cả ở kênh thông thường được thiết lập trước đây. Xét thấy có sự đa dạng hóa giữa các thị trường nước ngoài. Vì vậy, chính sách định giá sản phẩm có sự khác nhau thường là hợp lý. Về mặt thiết bị và hàng hóa tư bản chúng thường đòi hỏi phải có sự sửa đổi hoặc sản phẩm được làm theo ý khách hàng để đáp ứng các nhu cầu của khách hàng khác nhau và đặc biệt khi giá cả bao gồm một số dịch vụ khác nhau trước, trong và sau khi bán hàng nó thường không thực tế để kết hợp đối với giá xuất khẩu có tiêu chuẩn. Một VD đó là hãng Boeing và Airbus đã định giá máy bay của họ cho các hãng hàng không dân dụng ở nhiều quốc gia khác nhau. Không chỉ khác nhau về chi phí, giá sàn mà còn là sự thiếu khả năng tương đối của khách hàng để so sánh chi phí một cách chính xác cũng cho phép người bán đối với các biên tế lợi nhuận khác nhau để cạnh tranh thành công và duy trì mức độ sản xuất ở mức cao. Do vậy việc giữ tổng chi phí ở mức thấp có thể được. VD: cũng nên điều hành lợi nhuận biên tế ở mức tương đối thấp trên mỗi chương trình và chuẩn bị cho nó một công việc tiếp theo hoặc với khách hàng khác.

Quy mô của nhà xuất khẩu và thị phần của họ cũng chứa đựng chính sách nên theo đuổi đó là sự định giá có sự chênh lệch. Một nhà xuất khẩu có quy mô nhỏ dường như cảm thấy rằng có sự linh hoạt lớn hơn vì công ty có thị phần tương đối nhỏ trong tổng số thị trường thế giới. Nếu khách hàng ít và rải rác, khách hàng áp lực cho các loại giá tương đồng có thể là rất ít.

Tuy nhiên, một nhà xuất khẩu tầm cỡ lệ thuộc vào số lượng lớn khách hàng cho tỷ lệ doanh số đáng kể có thể nhận thấy rằng áp lực của khách hàng đòi hỏi cho sự đồng nhất giá cả để tránh sự bất mãn của khách hàng. Trong những trường hợp nơi mà các thị trường không được phân chia một cách rõ ràng về chi phí vận chuyển, thuế quan, các hàng rào phi quan thuế, số lượng lớn khách hàng dường như quyết định mua ở các quốc gia có giá thấp. Hoặc nếu sản phẩm là sự quan trọng ở một thị trường có lẽ các nhà trung gian tiếp thị sẽ mua sản phẩm ở thị trường có giá thấp và bán chúng ở thị trường có giá cao dưới cây dù giá cả được cung cấp bởi nhà sản xuất , người đã bán với sự chênh lệch giá rất lớn một cách không bình thường. Có lẽ điều này chính là hoàn cảnh mà Minolta đã tự nhìn thấy vào thập niên 1970.

Việc định giá chênh lệch cũng có thể thực hiện theo mùa hoặc chu kỳ. VD: một sản phẩm có kiểu dáng được bán theo mùa được bán ở Bắc bán cầu thì nó sẽ có một kiểu ngược lại ở Nam bán cầu. Như vậy, nhà sản xuất ở phía bắc có thể tìm thấy thị trường ở Nam Mỹ suốt trong mùa ế ẩm trong nước. Có thể giá cả khác nhau theo mùa sẽ đóng góp đến việc khai thác một cách đầy đủ cả hai thị trường.
 

 

( Sưu tầm trên Internet)

  • Chương IV: Chính sách sản phẩm quốc tế
  • I. Chính sách sản phẩm
  • II. Quá trình hình thành và phát triển một sản phẩm
  • 2. Quá trình phát triển sản phẩm mới: (New product development process)
  • 3. Quản lý chất lượng
  • 4. Nghiên cứu và phát triển : (Research & Development)
  • III. Quyết định hệ sản phẩm (Product mix decision)
  • 2. Từng giai đoạn của sản phẩm trong chu kỳ sống
  • 3. Tiêu chuẩn hóa sản phẩm hay sản phẩm được sản xuất thích nghi với yêu cầu của thị trường
  • IV. Bao bì
  • V. Nhãn hiệu
  • Chương V: Định giá sản phẩm quốc tế
  • III. Chiến lược định giá xuất khẩu cơ bản
  • IV. Mối quan hệ của các chính sách giá xuất khẩu đối với giá nội địa
  • V. Chào giá (The Price Quotation)