Ngày 29 tháng 11 năm 2004, Hiệp định về Thương mại Hàng hoá ASEAN-Trung Quốc đã được các Bộ trưởng Kinh tế ASEAN và Trung Quốc ký kết nhân dịp Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN- Trung Quốc tại Viêng Chăn (Lào). Hiệp định có hiệu lực từ 1/7/2005.
Đây là một bước tiến quan trọng thắt chặt mối quan hệ hợp tác kinh tế ASEAN, Trung Quốc và bước đầu hiện thực hoá mục tiêu của các nhà lãnh đạo nêu tại Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN-Trung Quốc đã ký kết vào tháng 11/2002. Hiệp định này mở đường cho hai bên tiếp tục thảo luận, đi đến thống nhất nhiều nội dung hợp tác quan trọng khác về thương mại dịch vụ, khu vực đầu tư ASEAN – Trung Quốc. Một khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc (ACFTA) toàn diện bao gồm hàng hoá, dịch vụ, đầu tư đang dần hình thành, mở ra cho doanh nghiệp hai bên những cơ hội và thách thức mới. Hiệp định về Thương mại Hàng hoá ASEAN-Trung Quốc qui định chi tiết các nguyên tắc quản lý xuất nhập khẩu của các thành viên, căn cứ theo Chuẩn mực chung của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Nội dung cơ bản nhất của Hiệp định Thương mại Hàng hoá ASEAN – Trung Quốc là các lộ trình cắt giảm thuế quan của ASEAN và Trung Quốc và nguyên tắc hưởng ưu đãi. Có hai nhóm hàng hoá chủ yếu có lộ trình cắt giảm thuế khác nhau là Nhóm các hàng hoá cắt giảm thuế thông thường (NT) và Nhóm các hàng hoá nhạy cảm (SEL). Những điểm cần lưu ý đối với doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình thực hiện Hiệp định Hiệp định về thương mại hàng hoá ASEAN – Trung Quốc không làm thay đổi quan hệ thương mại giữa Việt Nam với ASEAN. Các tác động nếu có chỉ là gián tiếp và dài hạn, thông qua tương quan trao đổi hàng hoá của Trung Quốc và ASEAN. Lý do là giữa các nước ASEAN đã cơ bản hoàn thành Chương trình CEPT thực hiện Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) với lộ trình nhanh hơn nhiều so với ACFTA. Việt Nam cũng hoàn thành cắt giảm thuế theo CEPT/AFTA từ năm 2006, tức là chỉ 6 tháng sau khi Hiệp định về Thương mại hàng hoá của ASEAN và Trung Quốc có hiệu lực. Các mức thuế ưu đãi của ASEAN dành cho Việt Nam theo AFTA thấp hơn hơn mức thuế ưu đãi trong ACFTA. Vì vậy, khi xuất khẩu hay nhập khẩu hàng hoá từ ASEAN, ngoài việc có được Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá của ASEAN (form D), doanh nghiệp không cần để tâm đến cam kết trong khuôn khổ ACFTA. Trong quan hệ thương mại song phương với Trung Quốc, thì đây là lần đầu tiên hai nước cùng cam kết cắt giảm thuế trong khuôn khổ một hiệp định mậu dịch tự do khu vực. Xét về mức độ cắt giảm thuế, biểu thuế của Trung Quốc, số lượng các dòng thuế trên 20% chiếm khoảng 29,9% biểu thuế, từ 11-20% chiếm 32,8% và dưới 10% chiếm 37,1%. Theo lịch trình, trong vòng 5 năm Trung Quốc sẽ cắt giảm thuế quan xuống 0% đối với các mặt hàng thuộc Nhóm các hàng hoá NT. Mức thuế này thấp hơn nhiều cam kết của Trung Quốc đối với các thành viên WTO. Đây là cơ hội lớn để nhiều hàng hoá Việt Nam xâm nhập sâu hơn vào thị trường Trung Quốc. Tuy vậy, cơ hội này có thành hiện thực hay không sẽ phụ thuộc nhiều vào sự chủ động của doanh nghiệp nước ta trước một vận hội mới. Nhược điểm căn bản của hàng hoá Việt nam là khả năng xâm nhập sâu vào thị trường Trung Quốc chưa cao, chủng loại hàng hoá đơn điệu, chất lượng thiếu ổn định và hầu như không có kinh nghiệm để đưa vào trong hệ thống phân phối lớn bên trong thị trường nội địa. Mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam là nguyên liệu như than đá, dầu mỏ, các loại quặng, gỗ, cao su chiếm khoảng 70% kim ngạch và nông sản, rau quả nhiệt đới, hải sản chiếm khoảng 20% kim ngạch. Dưới 10% kim ngạch là các sản phẩm công nghiệp, chế tạo như đồ nội thất, mạch điện tử, thiết bị điện, sản phẩm nhựa, dệt may, giày dép. Doanh nghiệp nước ta khi làm ăn với đối tác Trung Quốc vẫn mang nặng tư duy cũ, làm ăn theo kiểu nhỏ lẻ, ngắn hạn, thanh toán trao tay. Điển hình như trường hợp xuất khẩu rau quả tươi sang thị trường Trung Quốc. Mặc dù là sản phẩm có nhiều thế mạnh, nhưng xuất khẩu rau quả Việt Nam sang Trung Quốc đang có xu hướng suy giảm giảm đáng kể. Nhiều ý kiến cho rằng nguyên nhân suy giảm do thoả thuận song phương Thái Lan – Trung Quốc, miễn thuế nhập khẩu cho hoa quả của Thái Lan gây bất lợi cho hoa quả xuất khẩu Việt Nam. Thật ra, sự chênh lệch về giá trên đây không phải là yếu tố quyết định. Thoả thuận song phương Thái Lan – Trung Quốc miễn thuế hoa quả (áp dụng cho Chương 7 và 8) chỉ thấp hơn mức thuế hoa quả đang áp dụng cho Việt Nam từ 5-7% theo quy chế biên mậu, chưa kể là điều kiện giao thông, yêu cầu bảo quản đối với hàng hoá Việt Nam thuận lợi hơn nhiều so với Thái Lan. Nguyên nhân chính vẫn là cung cách kinh doanh, buôn bán thiếu tổ chức và kế hoạch dài hạn của các doanh nghiệp xuất khẩu nước ta. Đã từ lâu, rau quả tươi của Việt Nam và Thái Lan đã đứng trên hai đoạn thị trường có đẳng cấp hoàn toàn khác nhau. Trong khi Thái Lan đã xâm nhập vào các kênh bán buôn, các siêu thị trong thị trường nội địa, các thành phố lớn của Trung Quốc với giá cao, nhu cầu ổn định thì Việt Nam lại vẫn tập trung chủ yếu vào thị trường biên giới, nơi có bộ phận dân cư thu nhập thấp, yêu cầu chất lượng trung bình. Một thị trường rộng lớn hơn ở các đô thị miền Đông và Tây lục địa Trung Quốc đang bị bỏ ngỏ vẫn là một tiềm năng chưa với tới của hàng hoá nước ta. Một nhược điểm khác xuất phát từ thói quen, tập quán trao đổi hàng hoá biên mậu của doanh nghiệp nước ta. Chỉ riêng hạn chế này thôi cũng đã đủ để doanh nghiệp Việt Nam không thể tận dụng lợi thế của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc. Quy chế thương mại biên mậu của Trung Quốc có dành ưu đãi về giảm thuế quan bằng 50% thuế suất thông thường áp dụng cho hàng hoá nhập khẩu từ Việt Nam. Bù lại với lợi ích đó, quy chế biên mậu chỉ cho phép một số doanh nghiệp đầu mối của địa phương và cư dân các tỉnh phía Nam Trung Quốc gồm Vân Nam và Quảng Tây, khi giao dịch với nhà xuất khẩu nước ta. Thông thường, mọi thủ tục nhập khẩu kể cả kiểm dịch, cấp phép, thanh toán và thị trường tiêu thụ hàng đều hoàn toàn phụ thuộc vào nhà nhập khẩu Trung Quốc. Doanh nghiệp xuất khẩu của ta hầu như ít hiểu biết về luật lệ, chính sách của Trung Quốc và dễ dàng bị phía đối tác gây sức ép, nhất là với các chủng loại mặt hàng mang tính thời vụ như rau quả, hải sản tươi thì hiệu quả tính được bằng ngày, giờ. Kết quả là các hoạt động xuất khẩu chủ yếu diễn ra manh mún, nhỏ lẻ, hoàn toàn bị động và phụ thuộc vào các đầu mối nhập khẩu Trung Quốc. Hàng được giao đến người nhập khẩu Trung Quốc tại biên giới, nhà xuất khẩu nước ta lại “phủi tay” để tiếp tục lo cho chuyến hàng khác, mà thiếu hẳn một tầm nhìn dài hạn, vươn sâu vào thị trường nội địa cho sản phẩm của mình. Chính sách biên mậu hiện nay của Trung Quốc cùng với các ưu đãi thuế như hiện nay sẽ không tồn tại lâu, khi Trung Quốc buộc phải tuân thủ các cam kết của WTO và Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc. Từ cuối năm 2003, Tỉnh Quảng Tây đã không còn áp dụng quy chế biên mậu nữa. Tuy vậy, ưu đãi biên mậu mất đi không đáng lo bằng việc cơ chế quản lý của Bạn đã đổi mới theo thông lệ quốc tế, trong khi doanh nghiệp của ta thì vẫn loay hoay với nếp kinh doanh cũ, tiến hành các giao dịch nhỏ lẻ, thiếu an toàn với đối tác Trung Quốc để lại tiếp tục gánh chịu những rủi ro, thua thiệt về mình mỗi khi thị trường bên kia biên giới có biến động bất lợi. Để ACFTA thực sự có ý nghĩa các doanh nghiệp xuất khẩu, nước ta cần chủ động đổi mới bắt đầu từ nhận thức về cung cách kinh doanh từ khâu sản xuất theo định hướng thị trường, nâng cấp hệ thống bảo quản, tiếp thị và quảng bá thương hiệu. Doanh nghiệp xuất khẩu cần nắm rõ về những quy định của Trung Quốc về kiểm dịch, về tiêu chuẩn chất lượng, cơ chế cấp phép, thủ tục thanh toán,bảo hiểm. Một yêu cầu không thể thiếu đối với doanh nghiệp, là phải làm quen với cơ chế cấp giấy chứng nhận xuất xứ ACFTA để đủ tiêu chuẩn hưởng các ưu đãi của Khu vực mậu dịch tự do này. Cơ chế cấp giấy chứng nhận xuất xứ ACFTA (thường gọi là Form E) cho phép một hàng hoá được hưởng ưu đãi của ACFTA phải thực sự có nguồn gốc từ Việt Nam hay Trung Quốc. Trong điều kiện các doanh nghiệp làm ăn với Trung Quốc phần lớn là các hộ gia đình nông dân, doanh nghiệp có quy mô nhỏ thì việc đáp ứng những yêu cầu như trên, thậm chí chỉ là tiếp cận những thông tin chính sách mới thôi xem ra đã là rất khó khăn. Do vậy, sự liên kết, hợp tác dài hạn giữa nông dân với các hiệp hội, sự phối hợp của chính quyền địa phương và sự tham gia sâu hơn của các doanh nghiệp lớn là cực kỳ quan trọng. Bản thân doanh nghiệp cũng cần chủ động phối hợp với cơ quan nhà nước như địa phương, trung ương để kịp thời phản ánh những khúc mắc trong cơ chế nhập khẩu của phía Bạn để tìm cách thương thảo cùng tháo gỡ, tạo thuận lợi cho hàng xuất khẩu của nước ta. Trong bối cảnh nhập siêu của nước ta từ Trung Quốc đang gia tăng, do nhu cầu sử dụng các sản phẩm trung gian, nhập khẩu từ Trung Quốc để phát triển kinh tế trong nước, cơ hội duy nhất để thu hẹp nhập siêu là đẩy mạnh xuất khẩu của ta sang thị trường này. Hy vọng với sự đổi mới tư duy kịp thời của phía doanh nghiệp, sự hỗ trợ của chính sách của nhà nước, ACFTA sẽ thực sự mang lại lợi ích thiết thực cho nền kinh tế nước ta.
Tầng lớp tiêu dùng mới của Trung Quốc đang hình thành có sức hút mạnh mẽ đối với các công ty khi thủ đô Bắc Kinh quyết định thúc đẩy tiêu dùng nội địa. Sự xuống dốc của nền kinh tế toàn cầu gây ra những tác động không nhỏ đối với lĩnh vực xuất khẩu của Trung Quốc, vốn là động cơ truyền thống thúc đẩy tăng trưởng của nước này.
Ngày 5-11, Công ty Etam bắt đầu thu hồi mặt hàng giày da và giày bốt do Trung Quốc sản xuất do tình nghi nhà sản xuất sử dụng chất chống mốc trong sản phẩm gây dị ứng nghiêm trọng cho người tiêu dùng.
Các mặt hàng nguyên liệu như cói, tảo trúc, đay, gỗ, cao su, gỗ tràm, gỗ keo tai tượng đang được các đối tác nhập khẩu Trung Quốc thu hút mạnh.
Tình hình kinh tế quốc dân Trung Quốc trong 9 tháng đầu năm 2008 tiếp tục phát triển ổn định với tốc độ tương đối nhanh. 2. Kể từ ngày 01.11.2008, Trung Quốc điều chỉnh tăng tỷ lệ hoàn thuế xuất khẩu đối một số mặt hàng như dệt, may mặc, đồ chơi, gốm sứ, đồ nhựa, dụng cụ gia đình với mức điều chỉnh tăng từ 9% đến 14%.
Theo Hiệp hội Công nghiệp Da Trung Quốc, Tập đoàn Nike không có kế hoạch rút đầu tư ra khỏi Trung Quốc. Người phát ngôn của Nike cho biết, hãng sản xuất đồ thể thao lớn này sẽ không giảm đầu tư và sản xuất tại Trung Quốc mà sẽ chú trọng đến việc nâng cao hiệu quả sản xuất và kiểm soát chi phí để đáp ứng những thách thức do cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và chi phí nguyên liệu thô tăng gây nên.
Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo nhận định, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu khiến 2008 trở thành năm tồi tệ nhất đối với nước này (tính trong giai đoạn gần đây), trong bối cảnh tốc độ tăng trưởng kinh tế và lạm phát đang là những thách thức nghiêm trọng.
Ngày 29 tháng 11 năm 2004, Hiệp định về Thương mại Hàng hoá ASEAN-Trung Quốc đã được các Bộ trưởng Kinh tế ASEAN và Trung Quốc ký kết nhân dịp Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN- Trung Quốc tại Viêng Chăn (Lào). Hiệp định có hiệu lực từ 1/7/2005.
Theo tin từ Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN), một loạt thoả thuận hợp tác đã được lãnh đạo Tập đoàn này ký kết với các đối tác Trung Quốc, nhân chuyến tháp tùng Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tới Trung Quốc, từ ngày 20/10 đến 23/10.
Ngày 28 tháng 10, Trung tâm Phân phối Hàng hóa Trung Quốc tại EU đã được khánh thành sau 5 năm xây dựng. Trung tâm nằm tại khu vực kinh doanh ngoại ô Hague, cách cảng lớn nhất EU - Rotterdam khoảng 25km.
Theo báo chí địa phương, chủ tịch tập đoàn Adidas Herbert Hainer cho biết, do chi phí lao động tại Trung Quốc đang ngày càng tăng, để giảm chi phí sản xuất Adidas có kế hoạch sẽ cắt giảm một phần sản lượng của hãng ở nước này và chuyển sang sản xuất ở các nước khác.
Theo Tân Hoa xã, Cục Giám sát thực phẩm-dược phẩm tỉnh Giang Tô, ở miền đông Trung Quốc, đã quyết định tạm cấm bán 10 loại thuốc ở tỉnh này với lý do đã quảng cáo có tính lừa đảo như tùy tiện mở rộng công dụng của thuốc, tuyệt đối hóa, khuyếch đại hiệu quả trị liệu, nhằm lừa gạt và dẫn dắt sai lạc nghiêm trọng người tiêu dùng.
Theo một báo cáo tại Diễn đàn Phát triển Ngành da Trung Quốc 2008 tổ chức mới đây ở thành phố Phúc Châu của Trung Quốc cho thấy, tỉnh Phúc Kiến ở phía bắc của nước này đã trở thành một trong ba nơi sản xuất giày thể thao quan trọng và chiếm tới 20% tổng sản lượng giày thể thao của toàn thế giới.
Theo Phó thống đốc Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc Yi Gang, tỷ lệ lạm phát tại Trung Quốc có thể sẽ giảm xuống chỉ còn 3% trong năm 2009 so với mức ước tính 6,5% của năm 2008.
Theo số liệu của Cục Hải quan Quảng Đông (Trung Quốc), trong 3 quý đầu năm nay, hoạt động thương mại của tỉnh với các nước ASEAN tiếp tục tăng trưởng mạnh, với kim ngạch buôn bán hai chiều đạt 46,91 tỷ USD, tăng 17% so với cùng kỳ năm ngoái.
Trong bối cảnh số đơn đặt hàng từ các thị trường phương Tây sụt giảm do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tín dụng toàn cầu, các doanh nghiệp xuất khẩu Trung Quốc đang chuyển hướng sang phục vụ khách hàng trong nước.