Seedlink chiêu sinh hè 2015 các lớp học hát cho trẻ em tại Hà Nội
Seedlink chiêu sinh hè 2015 các lớp học múa cho trẻ em tại Hà Nội
Giá thuỷ sản tăng mạnh vào đầu năm do đợt rét khắc nghiệt ở châu Á; Nhu cầu giảm kéo giá giảm vào những tháng cuối năm. Các nhà sản xuất thuỷ sản gặp khó khăn do chi phí thức ăn nuôi thả cao. Thuỷ sản nuôi thả ngày càng quan trọng trên thị trường thế giới.
Thị trường thuỷ sản thế giới năm 2008 không quá biến động như những thị trường hàng hoá khác. Liên minh châu Âu (EU), thị trường Trung Đông và một số nước châu Á như Trung Quốc đang nổi lên thành những thị trường thuỷ sản có tốc độ tăng tiêu thụ mạnh.
Giá thuỷ sản trên nhiều thị trường châu Á quý I/2008 tăng mạnh, đặc biệt là Trung Quốc, do thời tiết khắc nghiệt. Tuy nhiên trên hai thị trường nhập khẩu hàng đầu thế giới là Mỹ và Liên minh châu Âu (EU), nhu cầu một số sản phẩm lại thấp trong khi nguồn cung mạnh khiến giá không những không tăng, có nơi lại giảm xuống. Bước sang quý II, chi phí sản xuất tăng mạnh đẩy giá thành sản phẩm tăng cao, cộng với lạm phát khiến không chỉ hạn chế nhu cầu của người tiêu dùng mà còn ảnh hưởng tới lợi nhuận của người chăn nuôi. Bởi các nhà đầu tư không chú ý mấy tới thị trường này nên giá thuỷ sản chỉ chịu ảnh hưởng bởi chi phí sản xuất, nhu cầu và các quy định về chất lượng hàng hoá.
Tuy nhiên, bắt đầu từ cuối quý II, chi phí sản xuất tăng cao và kinh tế thế giới sa sút đã ảnh hưởng tới thị trường thuỷ sản. Nhu cầu đối với thuỷ sản trên thế giới thường tăng lên vào tháng 11 và đầu tháng 12. Tuy nhiên, năm 2008, các nhà xuất khẩu chứng kiến số lượng đơn hàng giảm bớt. Tình hình trở nên tồi tệ hơn khi một số khách hàng yêu cầu hạ giá bán ngay cả khi hàng đã được chuyển tới. Nhiều nhà nhập khẩu thì cố gắng đàm phán ký lại hợp đồng. Sau khi đồng USD tăng giá trở lại so với đồng EUR và nhiều đồng tiền khác, khách hàng Châu Âu đều muốn giá thuỷ sản hạ xuống. Trong khi EU lại là thị trường tiêu thụ thuỷ sản lớn trên thế giới. Xuất khẩu thuỷ sản trên toàn cầu có thể giảm 20-30% về khối lượng trong giai đoạn quý IV/2008 - quý I/2009 do kinh tế toàn cầu suy thoái khiến nhu cầu đối với thuỷ sản sụt giảm. Thị trường thuỷ sản thế giới chịu ảnh hưởng bởi sức mua giảm, đặc biệt ở các thị trường tiêu thụ hàng đầu thế giới do giá cao và kinh tế khó khăn, đồng thời cũng chịu tác động bởi tình hình khai thác, đặc biệt là hải sản tự nhiên. Người tiêu dùng có xu hướng tiêu thụ các mặt hàng giá rẻ và cũng ít đi ăn hàng hơn.
Do chi phí sản xuất cao mà giá thành sản phẩm thấp, ngành nuôi trồng thủy sản thế giới đang bị sa sút. Ngược lại với vài năm qua, sức tăng trưởng mạnh mẽ trong nuôi trồng thuỷ sản đã và sẽ bị chững lại trong năm 2008 và 2009. Điều này gây lo ngại cho tổng nguồn cung thuỷ sản trên toàn cầu. Sản lượng cá rôphi tăng nhanh chóng trong mấy năm gần đây cũng sẽ sụt giảm mạnh trong năm 2008 xuống còn 2,06 triệu tấn. Nguồn cung cá minh thái Alaska giảm gần 11% trong năm 2008 xuống còn 2,5 triệu tấn và sẽ chỉ hổi phục nhẹ lên 2,58 triệu tấn vào năm sau. Năm 2008, sản lượng cá minh thái Alaska của Mỹ giảm xuống còn 1 triệu tấn. So với năm 2005, sản lượng loài thuỷ sản này đã giảm hơn 32%. Ngược lại, sản lượng của Nga lại tăng 4% lên 1,2 triệu tấn và dự kiến sẽ tăng hơn 8% vào năm 2009, đạt 1,3 triệu tấn. Sản lượng cá tuyết Đại Tây Dương sẽ giảm nhẹ (2%) còn 770.000 tấn. Nguồn cung cá tuyết haddock giữ nguyên mức 337.000 tấn mặc dù nhiều chuyên gia dự đoán sản lượng loài này sẽ tăng 13% vào năm 2009. Ngành thuỷ sản Trung Quốc duy trì được tốc độ tăng trưởng ổn định trong năm 2008 nhờ sản lượng thuỷ sản nuôi tăng 3% so với năm trước, đạt 48,9 triệu tấn. Bất chấp cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, thặng dư thương mại thuỷ sản nuôi của Trung Quốc vẫn tăng 190 triệu USD (5,78%) lên 3,49 tỷ USD trong 9 tháng đầu năm 2008. Ngoài cuộc khủng hoảng tài chính, ngành nuôi trồng thuỷ sản nước này còn thường xuyên phải đối phó với thiên tai, như thời tiết đông giá vào đầu năm và bão lụt hồi giữa năm. Tuy nhiên, sản lượng của ngành này vẫn tăng nhờ việc cải tiến các đầm nuôi, thiết lập hệ thống kiểm tra, kiểm dịch và hệ thống sản xuất con giống tốt.
Tiêu thụ thuỷ sản nuôi năm 2008 lần đầu tiên vượt trội so với thuỷ sản đánh bắt. Tổ chức Nông lương Liên Hiệp Quốc (FAO) ước tính 43% sản lượng nghề cá thế giới đến từ hoạt động nuôi thả. Tại Anh, nhu cầu đối với cá hồi nuôi đang tăng lên, và doanh thu từ cá hồi nuôi Scotland đã vượt quá 400 triệu bảng từ năm 2006, chỉ sau doanh thu từ thịt bò (467 triệu bảng), và cao hơn hẳn doanh thu từ thịt cừu, thịt lợn và thủy sản đánh bắt.
Ấn Độ có thể sẽ từ nước xuất khẩu thuỷ sản lớn trở thành nước nhập khẩu thuỷ sản do sản lượng trong nước giảm. Xuất khẩu thủy sản của nước này đã giảm từ mức 612.642 tấn vào năm 2006-2007 xuống còn 541.701 tấn, trị giá 76.200 triệu rupee trong năm 2007-2008. Trong khi đó tiêu thụ trong nước đang tăng do thu nhập của người dân và GDP tăng khá. Bởi vậy, về lâu dài cán cân xuất nhập khẩu có thể được cân bằng. Với xu hướng hiện tại thì đến năm 2050, Ấn Độ sẽ không còn nhiều thủy sản để xuất khẩu nữa cho nên cần phải cân nhắc đến việc nhập khẩu nguyên liệu cho chế biến và xuất khẩu.
TÔM:
Giá tôm thế giới tăng mạnh từ cuối năm 2007 tới gần hết quý I/2008, sau đó giảm nhẹ vào đầu quý II, phục hồi vào quý tiếp theo và giảm trở lại vào cuối năm. Sự bất ổn của ở các thị trường tôm hàng đầu thế giới đã ảnh hưởng tới thị trường tôm toàn cầu.
Mỹ là nhà nhập khẩu tôm lớn nhất thế giới, mỗi năm nước này nhập khoảng 550.000 tấn. Tuy nhiên, sau 10 năm tăng tăng liên tục, nhập khẩu tôm vào Mỹ năm 2008 bắt đầu trì trệ. Nhập khẩu tôm vào Mỹ trong 6 tháng đầu năm 2008 đạt tổng cộng 236.000 tấn, hầu như không thay đổi về khói lượng so với cùng kỳ năm 2007. Mặc dù giá trị nhập khẩu tôm tăng 2,4% song nguyên nhân là do giá tôm nhập khẩu vào Mỹ tăng 2,5%, chủ yếu là tôm vỏ đông lạnh. Nhìn chung, các nước Châu Á như Thái Lan, Inđônêxia, Trung Quốc và Việt Nam vẫn chi phối thị trường tôm Mỹ, chiếm 65% tổng nhâp khẩu. Ecuađo là nhà cung cấp quan trọng với 13% thị phần. Các nước Châu Á cung cấp nhiều sản phẩ giá trị gia tăng hơn, trong khi các nước Mỹ Latinh chủ yếu cung cấp sản phẩm tôm bỏ đầu đông lạnh.
Tại Nhật Bản, việc đồng Yên tăng giá so với Đôla Mỹ trong những tháng đầu và cuối năm 2008 cũng tác động giảm tiêu thụ tôm. Nhập khẩu tôm vào Nhật bắt đầu giảm từ năm 2007 và tiếp tục giảm trong năm 2008, nhưng Nhật vẫn là nước nhập nhiều tôm lớn thứ 2 thế giới, sau Mỹ. Tôm vẫn là loại thuỷ sản được nhập nhiều nhất vào Nhật, chiếm 16% trong tổng thuỷ sản nhập vào đây năm 2007, với 270.000 tấn. Đa số tôm nhập vào Nhật là tôm chưa chế biến, nhưng khối lượng tôm chế biến nhập vào thị trường này đã tăng lên trong những năm gần đây. Cũng giống đa số người tiêu dùng ở các nước phát triển, người tiêu dùng Nhật muốn thưởng thức các sản phẩm giá trị gia tăng tiện lợi và bảo đảm vệ sinh nhưng không muốn chi nhiều tiền và vì thế họ gây áp lực đối với người bán lẻ và nhà cung cấp để giữ giá bán thấp trên thị trường. Nói chung người tiêu dùng Nhật sẽ lựa chọn các loại thuỷ sản đánh bắt trong nước thay tôm và cá ngừ do giá bán hai mặt hàng này ngày càng tăng khi nền kinh tế suy thoái.
Nhu cầu tiêu thụ tôm ở châu Âu năm 2008 thấp, trái với xu hướng tăng liên tục của mấy năm gần đầy. Trong khi nhu cầu thấp ở hầu hết các thị trường: Tây Ban Nha, Italia, Pháp…. các nước xuất khẩu tôm như Thái Lan, Inđônêixa, Ecuađo, Ấn Độ… lại đang nỗ lực mở rộng thị phần của mình trên thị trường Châu Âu do gặp khó khăn ở thị trường Mỹ. Kết quả là giá tôm tại châu Âu cũng giảm xuống, và tiêu thụ vẫn chậm. Trong ngắn hạn, khả năng thị trường tôm sẽ tiếp tục trì trệ. Tuy nhiên về trung hạn, chi phí khai thác, nuôi trồng, chế biến và vận chuyển tăng sẽ đẩy giá tôm tăng trở lại.
May mắn thay, nhu cầu ở Trung Quốc, châu Âu (bao gồm Đông Âu) và các khu vực giàu tài nguyên như Nga và Trung Đông lại đang tăng lên. Sự chuyển hướng của tôm sang các thị trường mới có thể cho thấy những thay đổi về nền kinh tế và mức thu nhập của người dân trên thế giới.
Tôm chân trắng đang nổi bật trên thị trường thế giới với tiêu thụ tăng mạnh, lấn át nhiều loại tôm khác như tôm sú. Do nhu cầu tôm cỡ lớn trên cả thị trường xuất khẩu lẫn nội địa khiến nhiều nước sản xuất tôm chân trắng ở Đông Nam Á, với trung tâm là Thái Lan đang phải đẩy mạnh sản xuất tôm cỡ lớn 26/30 hoặc lớn hơn. Một nguồn tin thương mại của Nhật dự báo rằng tôm chân trắng cỡ lớn sẽ chiếm từ 10-12% nguồn cung tôm cho thị trường Nhật.
Giá tôm chân trắng tại Thái Lan (Baht/kg) | ||||||
Ngày | 50 con/kg | 60 con/kg | 70 con/kg | 80 con/kg | 90 con/kg | 100con/kg |
30/12/2008 | 123 | 116 | 110 | 100 | 92 | 86 |
1/6/2008 | 108 | 100 | 93 | 90 | 86 | 80 |
4/1/2008 |
| 120 | 103 | 97 | 90 | 85 |
CÁ NGỪ:
Khác với mặt hàng tôm, giá cá ngừ tăng khá nhiều trong 3 quý đầu năm 2008 bởi sản lượng khai thác ở Ấn Độ Dương thấp và chi phí nhiên liệu tăng cao. Tổng cung cá ngừ ở thị trường Nhật Bản quý I năm 2008 giảm rõ rệt so với cùng kỳ năm 2007, sau khi sản lượng khai thác nội địa 3 tháng cuối năm 2007 giảm 11% xuống chỉ 50.901 tấn. Từ mức khoảng 1.300 USD/tấn, giá cá ngừ vằn nguyên liệu đã lên tới 1.600 USD/tấn vào giữa năm (so với khoảng 800-1.000 USD/tấn một năm trước đó). Cơ quan Nghề cá Nhật Bản cho biết, giá nhiên liệu cho các tàu khai thác đã tăng gấp 2,3 lần kể từ tháng 3/2004 tới giữa năm 2008 do giá dầu thô tăng liên tục leo thang. Theo số liệu thống kê của FAO, tổng sản lượng khai thác 5 loài cá Ngừ chủ yếu là cá Ngừ vằn, cá Ngừ vây vàng, cá Ngừ mắt to, cá Ngừ vây dài và cá Ngừ vây xanh năm 2008 và những năm tới sẽ không thể tăng hơn mức vốn đã thấp của những năm 2005-2006, khoảng 4,35 triệu tấn. Nhiều tàu khai thác cá Ngừ ở châu Á thậm chí có thể phải ngừng hoạt đồng do giá nhiên liệu ngày một tăng, dẫn đến giá cá ngừ sashimi có thể sẽ tăng theo. Ngày càng có nhiều tàu đã đăng ký nhưng không hoạt động do chi phí nhiên liệu tăng cao trong khi việc đánh bắt ngày một khó khăn do nguồn cung suy giảm. Tuy nhiên vào những tháng cuối năm, giá giảm dần do nhu cầu giảm, chịu tác động từ suy thoái kinh tế, và giá nhiên liệu giảm. Từ mức 1.850 -1900 USD/tấn trong quý III, giá giá mỗi tấn cá ngừ đã giảm xuống trung bình 1.400 USD.
CÁ HỒI, CÁ THU:
Theo khảo sát mới đây do Bộ Nông, Lâm, Ngư nghiệp Nhật Bản tiến hành, nhu cầu đối với cá hồi của Trung Quốc ước tính tăng khoảng 40% năm 2008. Tiêu thụ cá hồi và nhu cầu nguyên liệu của Trung Quốc cho sản xuất sushi tăng nhanh chóng. Năm 2006, Trung Quốc nhập khẩu 10.000 tấn cá hồi. Qua phỏng vấn nhiều tổ chức ngành, thì nhu cầu đối với cá hồi của nước này tăng với tốc độ từ 35-40%/năm. Ở Trung Quốc, cá hồi là loại thủy sản cao cấp với giá bán khoảng 40 NDT/kg. Trung Quốc dự định nuôi cá hồi trên qui mô lớn trong tương lai.
RÔ PHI:
Trên thị trường Trung Quốc, đợt rét khắc nghiệt nhất trong vòng 50 năm trở lại đây xảy ra hồi đầu năm đẩy giá thuỷ sản tăng mạnh bởi tôm cá chết hàng loạt. Theo ước tính của các nhà cung cấp, hơn 70% sản lượng cá rô phi nuôi của Trung Quốc bị thiệt hại do đợt rét cuối tháng 1 gây ra, gây khan hiếm nguồn thuỷ sản không chỉ ở nước này mà ảnh hưởng tới toàn cầu, vì Trung Quốc là nguồn cung cá rô phi chính cho thị trường thế giới. Trong quý I, theo ước tính, giá cá rôphi trên thị trường Trung Quốc tăng từ 30% - 100%. Giá cá Rô phi giống trên thị trường đã tăng 50% và người nuôi chưa sẵn sàng thả nuôi tiếp cho đến tháng 4. Sản lượng cá rô phi Trung Quốc năm 2008 ước tính giảm 80% do thời tiết cuối mùa đông khắc nghiệt. Nhu cầu cá rô phi mấy năm gần đây tăng mạnh. Tại thị trường Châu Âu và Mỹ, đặc biệt khi tiêu thụ những loài cá vốn rất được yêu thích như là cá tuyết và cá tuyết chấm đen đã bị các nhà môi trường học cực lực phê phán.
CÁ DA TRƠN:
Thị trường cá da trơn thế giới biến động mạnh trong những tháng đầu năm 2008. Trên thị trường Mỹ, giá thu mua cá da trơn tăng nhẹ so với tháng 4/2008, nhưng lại giảm so với một năm trước đây, trong khi chi phí sản xuất (nhiên liệu, thức ăn) tăng cao. Giá thức ăn chăn nuôi cá đã tăng gấp đôi chỉ trong một năm qua do giá ngũ cốc và các chi phí đầu vào khác đều tăng.
(Theo Vinanet)
Chuyển nhượng, cho thuê hoặc hợp tác phát triển nội dung trên các tên miền:
Quý vị quan tâm xin liên hệ: tieulong@6vnn.com