Tin kinh tế, tài chính, đầu tư, chứng khoán,tiêu dùng

Hệ thống pháp luật Hoa Kỳ (34): Việc thực thi và tác động của các chính sách tòa án - Phần 4

TÁC ĐỘNG CỦA CÁC CHÍNH SÁCH CỦA TÒA ÁN (Tiếp theo)

Nạo phá thai

Trong vụ Roe kiện Wade (1973), Tòa án tối cao đã phán quyết rằng một phụ nữ có quyền tuyệt đối trong việc nạo phá thai trong ba tháng đầu tiên mang thai; rằng một bang có thể điều tiết các thủ tục nạo phá thai trong thời kỳ ba tháng mang thai tiếp theo để bảo đảm sức khỏe cho người mẹ; và rằng, trong ba tháng thai nghén cuối cùng, bang có thể quy định hạn chế hoặc cấm việc nạo phá thai, trừ phi tính mạng hoặc sức khỏe của người mẹ bị đe dọa.

Phản ứng đối với phán quyết này là tức thời, và chủ yếu là tiêu cực. Nó được thể hiện dưới hình thức các lá thư gửi tới cá nhân các thẩm phán, các bài phát biểu công khai, việc đưa ra các nghị quyết tại Quốc hội, và phong trào tuyên truyền vận động cho các tu chính án về “quyền được sống” tại Quốc hội. Xét tới bản chất gây tranh cãi trong phán quyết này của Tòa án, các bệnh viện đã không tận lực ủng hộ cho phán quyết này bằng việc thay đổi chính sách nạo phá thai của họ.

Phản ứng đối với chính sách về nạo phá thai của Tòa án tối cao không chỉ vẫn tiếp tục mà còn mở rộng tới những phạm vi mới. Những cuộc bầu cử tổng thống gần đây đã chứng kiến các diễn đàn và ứng cử viên của hai đảng chủ chốt đưa ra những quan điểm trái ngược nhau về vấn đề nạo phá thai. Diễn đàn và ứng cử viên của Đảng Dân chủ nhìn chung đồng tình với phán quyết của vụ Roe kiện Wade, trong khi diễn đàn và các đối thủ Đảng Cộng hòa lại cho thấy sự phản đối trước quyết định của Tòa án tối cao.

Quốc hội cũng là một lò lửa của những hoạt động phản ứng lại trước phán quyết của Tòa án tối cao về nạo phá thai. Không thể bảo đảm việc thông qua một tu chính án Hiến pháp để bác bỏ phán quyết Roe kiện Wade, những lực lượng chống việc nạo phá thai - cũng được biết đến dưới cái tên “những lực lượng ủng hộ quyền sống” - đã thành công trong việc vận động thông qua những điều khoản sửa đổi đối với các dự luật chuẩn chi để ngăn cản việc chi tiêu cho quỹ của liên bang dành cho việc nạo phá thai theo mong muốn. Năm 1980, Tòa án tối cao đã phán quyết rằng sự ngăn cản này là không hợp hiến, với tỷ lệ 5 phiếu thuận và 4 phiếu chống.

Phần lớn các đạo luật ra đời do tác động của phán quyết Roe đều là ở cấp bang. Theo một nghiên cứu cho thấy, trong vòng hai năm sau khi phán quyết Roe ra đời, 32 bang đã thông qua 62 đạo luật liên quan tới việc nạo phá thai, phần lớn đều nhằm hạn chế tiếp cận đối với việc nạo phá thai, điều tiết các thủ tục nạo phá thai, hoặc cấm nạo phá thai trong những điều kiện nhất định.

Các nhóm lợi ích đã tăng cường hoạt động hết sức mạnh mẽ sau khi có phán quyết Roe. Các nhóm phản đối quyết định này thường tổ chức những cuộc biểu tình công khai chống lại phán quyết và sau đó bắt đầu đứng chặn tại các cơ sở y tế. Các nhóm lợi ích ủng hộ phán quyết này thường tập trung nỗ lực của họ nhiều hơn vào các tòa án.

Trong khi các trận chiến xung quanh vấn đề nạo phá thai đang diễn ra tại các phiên tòa, các chiến dịch vận động chính trị và các cơ quan lập pháp, những người khác thích một cách tiếp cận trực tiếp hơn đã biểu tình trước các trung tâm nạo phá thai và phong tỏa những trung tâm này. Tuy nhiên, Tòa án tối cao đã phán quyết rằng có thể sẽ phải đặt ra những giới hạn phù hợp về mặt thời gian, địa điểm và cách thức đối với các cuộc biểu tình này. Quan điểm này đã được tái khẳng định vào ngày 28 tháng Sáu 2000, khi Tòa án tối cao bác bỏ một quy định của bang Colorado, tuyên bố rằng hành động của một người tiếp cận một cách có chủ ý một người khác mà không được họ đồng tình để phát tờ rơi, trưng bày một biểu ngữ, hoặc phản đối miệng trong vòng 100 feet (khoảng 30m) xung quanh một cơ sở y tế là bất hợp pháp.

Kết luận


Một số chính sách của tòa án có tác động lớn hơn tới xã hội so với những chính sách khác. Trong việc xây dựng các chính sách của đất nước, hệ thống tư pháp đóng một vai trò quan trọng hơn so với những gì mà những người xây dựng khuôn khổ của Hiến pháp hình dung. Tuy nhiên, “các tòa án Mỹ không phải là những thể chế có quyền lực tuyệt đối”, Gerald N. Rosenberg đã viết như vậy trong tác phẩm nhan đề Hy vọng hão huyền: Các tòa án có thể mang lại sự thay đổi xã hội hay không? Hollow Hope: Can Courts Bring About Social Change? “Chúng được thiết kế với những hạn chế nghiêm ngặt và được đặt trong một hệ thống phân chia quyền lực. Đòi hỏi chúng tạo ra những cải cách xã hội có ý nghĩa đồng nghĩa với việc phải quên đi lịch sử của chúng và bỏ qua những hạn chế của chúng”.

Bên trong khuôn khổ phức tạp của các đòi hỏi và kỳ vọng về chính trị và xã hội cạnh tranh nhau này là vai trò hoạch định chính sách của tòa án. Bởi vì hai ngành khác trong chính quyền đôi khi không dễ tiếp nhận những đòi hỏi của một số tầng lớp nhất định trong xã hội, nên lựa chọn duy nhất của các cá nhân hoặc nhóm này là hướng tới tòa án. Một ví dụ là các tổ chức nhân quyền đã không có được tiến triển thực sự cho tới khi họ phát hiện ra rằng Tòa án tối cao là một diễn đàn ủng hộ cho những nỗ lực của họ nhằm xóa bỏ sự phân biệt đối xử tại trường học.

Do các nhóm hoạt động nhân quyền đã đạt được một số thành công tại các tòa án liên bang, các nhóm khác cũng được khuyến khích tiến hành việc kiện tụng như một chiến lược. Ví dụ, các nhóm ủng hộ quyền của phụ nữ đã bắt chước mô hình được đưa ra bởi các nhóm thiểu số khi họ bắt đầu đệ trình những khiếu kiện và bất bình của mình lên trước tòa. Như vậy, quá trình mở đầu bằng việc theo đuổi ở phạm vi hẹp quyền bình đẳng chủng tộc đã được mở rộng ra thành một cuộc tìm kiếm sự bình đẳng chung cho các nhóm bị thiệt thòi khác trong xã hội.

Khi đó, các tòa án rõ ràng có thể tuyên bố những quyết sách thu hút được sự quan tâm của cả quốc gia và có lẽ nhấn mạnh thực tế rằng các nhà hoạch định chính sách khác đã thất bại trong công việc của mình. Theo cách thức này, hệ thống tư pháp có thể yêu cầu các ngành còn lại thực thi quyền lực hoạch định chính sách của mình. Các quyết định tiếp theo sau cho thấy quyết tâm của ngành tư pháp trong việc theo đuổi một chính sách cụ thể và giúp duy trì lời yêu cầu các nhà hoạch định chính sách khác cùng tham gia vào nỗ lực này.

Tóm lại, có thể thấy rằng các tòa án dường như thích hợp nhất trong vai trò xây dựng và thực thi các chính sách hẹp mà về bản chất ít gây tranh cãi. Chính sách được đưa ra trong phán quyết Gideon là một ví dụ điển hình. Quyết định về việc các bị cáo nghèo bị xét xử tại các phiên tòa hình sự của bang phải được cung cấp một luật sư biện hộ không gặp phải bất kỳ sự phản đối mạnh mẽ nào. Hơn nữa, nó là một chính sách chủ yếu đòi hỏi sự ủng hộ của các thẩm phán và luật sư; hành động của Quốc hội và tổng thống là không cần thiết. Ngược lại, chính sách về quyền bình đẳng cho tất cả mọi tầng lớp trong xã hội là một chính sách có phạm vi quá rộng và gây nhiều tranh cãi tới mức nó phải vượt ra khỏi phạm vi của tòa án. Và khi điều này xảy ra, các tòa án đơn giản chỉ trở thành một bộ phận, cho dù là một bộ phận quan trọng, của quá trình ra quyết định.

(Nguồn: Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam)