Từ năm 2006 đến nay, Trung Quốc vượt qua Nhật Bản để trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, và nhập siêu từ Trung Quốc ngày càng trở thành vấn đề nan giải của nước ta
Để cân bằng hơn cán cân thương mại này, Bộ Công thương rất quan tâm, nhưng không phải bằng cách giảm mạnh nhập khẩu, mà phải tăng xuất khẩu.
Tăng tốc nhập siêu
Kể từ khi quan hệ hợp tác thương mại nội khối ASEAN+3 bắt đầu được triển khai từ năm 2000 đến nay, các doanh nghiệp Trung Quốc đã đặc biệt quan tâm khai thác thị trường nước ta. Kim ngạch xuất khẩu năm 1999 chỉ mới là 673 triệu USD, thì năm 2008 tăng vọt lên 15,652 tỉ USD, tức là tăng 23,25 lần.
Thế nhưng, ngược lại, các doanh nghiệp nước ta lại hoàn toàn “lép vế”, bởi cũng trong khoảng thời gian này xuất siêu chỉ tăng được từ 746 triệu USD lên 4,536 tỉ USD và 6,08 lần. Do vậy, từ xuất siêu 73 triệu USD năm 1999, hiện chúng ta đã nhập siêu kỷ lục 11,116 tỉ USD.
Không những vậy, tình hình còn đáng lo ngại hơn nữa, nếu xem xét tiến độ của các hoạt động này theo hai giai đoạn. Đó là, tốc độ tăng xuất khẩu bình quân của các doanh nghiệp nước ta 5 năm 2001 – 2005 còn đạt 16,02% thì 3 năm vừa qua chỉ còn là 12%, trong khi của các doanh nghiệp Trung Quốc là 33,31% và 38,43%.
Hơn thế, trong khi các tốc độ tăng này của các doanh nghiệp Trung Quốc đã ngày càng cao hơn so với tốc độ tăng xuất khẩu của chính họ ra thị trường thế giới, còn của các doanh nghiệp nước ta thì hoàn toàn ngược lại.
Theo nhiều chuyên gia kinh tế, Trung Quốc và Việt Nam có nhiều sản phẩm tương đồng nên việc mở rộng diện mặt hàng xuất khẩu sang nước này rất khó khăn. Việt Nam chỉ có thể khắc phục được khó khăn này khi cơ cấu sản xuất trong nước và cơ cấu hàng xuất khẩu thay đổi phù hợp với nhu cầu nhập khẩu của Trung Quốc.
Sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam tại thị trường Trung Quốc so với chính hàng hoá cùng loại của Trung Quốc và các nước khác cũng được đánh giá là còn yếu. Các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa có sự thay đổi theo hướng tích cực trong tư duy, luôn có thái độ ỷ lại, chờ đợi sự hỗ trợ của các cơ quan chủ quản, các bộ ngành, không chủ động tìm hiểu, tiếp cận, thâm nhập thị trường, không tiếp cận được mạng lưới tiêu thụ ổn định, bền vững và lâu dài. Do vậy, rất dễ bị động trong quan hệ buôn bán với Trung Quốc.
Nguyên nhân mấu chốt dẫn đến tình trạng nói trên, đó là, trong khi danh mục hàng hoá xuất khẩu của Trung Quốc ngày càng dài thêm và khối lượng hàng hoá chủ yếu xuất khẩu cũng tăng rất mạnh ở một loạt danh mục, thì của nước ta lại hầu như ngược lại.
Cụ thể là, từ 10 mặt hàng xuất khẩu chủ yếu và cũng chỉ có ba mặt hàng đạt kim ngạch 100 triệu USD trở lên năm 2001, danh mục này của Trung Quốc hiện lên tới 33 và có ba mặt hàng đạt từ 1,544 tỉ USD đến 3,769 tỉ USD, còn đạt gần 100 triệu USD đến dưới 1 tỉ USD thì có tới 15. Trong khi đó, danh mục này của chúng ta chỉ từ 23 nhích lên 26 mặt hàng.
Cơ cấu xuất nhập bất lợi
– Thứ nhất, hoạt động xuất khẩu phụ thuộc rất nặng nề vào ba mặt hàng nguyên liệu thô “cổ truyền” là dầu thô, than đá và cao su. Các số liệu thống kê cho thấy, trong 8 năm qua, 3 mặt hàng chiếm tới 59,1% tổng kim ngạch, cho nên chúng ta đã không ít lần rơi vào tình trạng: hễ tăng tốc xuất khẩu các mặt hàng này vào đây thì tốc độ tăng xuất khẩu nói chung vọt lên, và ngược lại.
– Thứ hai, sự “ì ạch” trong việc xuất khẩu các mặt hàng còn lại. Trong 8 năm qua, trong khi tốc độ tăng xuất khẩu của 3 mặt hàng nguyên liệu nói trên là 20,15%/năm, thì của các mặt hàng còn lại chỉ là 14,62%/năm, tức là những nỗ lực đa dạng hoá mặt hàng để tăng tốc xuất khẩu sang thị trường này chỉ thu được những kết quả rất khiêm tốn.
Trong khi đó, sản lượng dầu thô khai thác được rất hạn chế sẽ phải dùng để nuôi ngành công nghiệp hoá dầu trong nước ngay từ năm nay, còn khối lượng than đá xuất khẩu chỉ trong một vài năm tới có lẽ cũng sẽ bằng không vì chính chúng ta cũng phải nhập khẩu để đáp ứng nhu cầu năng lượng tăng vọt. Rõ ràng việc hạn chế nhập siêu từ thị trường này bằng cách gia tăng hoạt động xuất khẩu là khó khăn.
Hãy giả định rằng, nếu như không thể giảm mạnh nhập khẩu từ thị trường này, nên thay vì tăng 38,43%/năm trong 3 năm qua chúng ta sẽ duy trì tốc độ tăng 30%/năm trong ba năm tới, thì con số này sẽ lên tới gần 34,4 tỉ USD vào năm 2011.
Trong khi đó, giả định rằng mặt hàng cao su sẽ phải tăng đại nhảy vọt để bù cho phần cắt giảm dần hai mặt hàng nguyên liệu “cổ truyền” còn lại, cho nên sẽ chỉ đạt 3,6 tỉ USD (tăng 14,5%/năm).
Khi đó, cho dù vẫn buộc phải chấp nhận mức thâm hụt 11,1 tỉ USD khổng lồ như hiện tại, thì kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng còn lại sẽ phải đạt tới 19,7 tỉ USD, tức là phải tăng gần 9,4 lần chỉ trong vòng ba năm.
Đây có lẽ là điều không tưởng và cũng tự cổ chí kim chưa từng có trong lịch sử ngoại thương của nước ta.
Do vậy, vấn đề đặt ra là, bên cạnh những nỗ lực vượt bậc để tăng tốc xuất khẩu, để đạt được mục tiêu kiềm chế nhập siêu từ thị trường này, có lẽ chúng ta không thể không tính tới kịch bản giảm mạnh hơn nữa tốc độ tăng nhập khẩu.
Có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng, trên thực tế, chúng ta cũng đã và đang tiếp cận vấn đề hạn chế nhập siêu từ thị trường này nói riêng và hạn chế nhập siêu từ thị trường thế giới nói chung theo hướng phát triển một loạt các dự án thép, hoá dầu, phân bón...
Bởi khi chúng đi vào hoạt động, đương nhiên quy mô nhập khẩu các loại sản phẩm này từ Trung Quốc nói riêng và thị trường thế giới nói chung sẽ giảm. Thế nhưng, để đạt được mục tiêu, có lẽ cũng không thể không tính tới việc phát triển mạnh việc sản xuất một loạt các sản phẩm trung gian khác để thay thế hàng nhập khẩu từ thị trường này lên tới nhiều trăm triệu USD mỗi năm, mà điển hình nhất có lẽ là các loại nguyên phụ liệu của ngành dệt may.
Nói tóm lại, nhập siêu là căn bệnh kinh niên, trong đó nhập siêu từ thị trường khổng lồ Trung Quốc đã tăng đột biến trong những năm gần đây càng làm cho tình hình trở nên trầm trọng hơn.
Để hạn chế nhập siêu, chúng ta chỉ có thể thành công bằng một tổ hợp các giải pháp bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau, chứ không thể chỉ bằng một giải pháp duy nhất hay những giải pháp đơn lẻ.
Nhóm hàng điện tử viễn thông vẫn dẫn đầu nhóm ngành hàng xuất khẩu có “hàm lượng” FDI cao nhất và giá trị xuất khẩu thuộc hàng cao nhất. Tuy nhiên, hàm lượng FDI trong top 10 đã có sự sụt giảm đáng kể.
Bằng nhiều cách, hàng hóa Thái Lan đang ngày càng chiếm lĩnh thị trường Việt Nam và trong tương lai không xa có thể là một thách thức lớn cho hàng Việt.
Trong bối cảnh kinh tế tiếp tục khó khăn, diễn biến phức tạp và tiềm ẩn nhiều rủi ro, Hiệp hội Rau quả Việt Nam đã đưa ra dự báo, nhu cầu tiêu thụ rau quả thế giới tiếp tục tăng từ 3,5-5% và ngành rau quả đặt mục tiêu xuất khẩu đạt 1 tỷ USD trong năm 2013.
Gần đây, nhiều lô hàng chè của Việt Nam xuất khẩu sang các nước châu Âu EU đã bị trả về do phát hiện có chứa các chất Acetamiprid và Imidacloprid. Đây là 2 chất thuộc danh mục 02, theo lộ trình sẽ bị đưa ra khỏi danh mục vào tháng 2/2015.
Trong khi các nền kinh tế lớn ở châu Âu bao gồm cả Đức, Pháp và Italy đều bị ảnh hưởng nặng nề bởi cuộc khủng hoảng nợ công khu vực đồng tiền chung euro, kinh tế Thụy Sĩ trong năm qua vẫn phát triển với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả năm 2012 đạt khoảng 422 tỷ USD.
Tiếp tục đà tăng trở lại trong tháng 3 và tháng 4, ước tính kim ngạch nhập khẩu ôtô tháng 5/2009 tiếp tục tăng lên. Theo ước tính của Tổng cục Thống kê, lượng ôtô nguyên chiếc nhập khẩu về trong tháng 5 đạt khoảng 5.000 chiếc, giá trị kim ngạch khoảng 82 triệu USD.
Trong những năm gần đây, cán cân thương mại Việt Nam bị thâm hụt nặng nề khi tham gia thương mại với Trung Quốc. Lý do là khi ACFTA hình thành, mặc dù triển vọng tăng cường xuất khẩu giữa Trung Quốc và Việt Nam là rất lớn, song đối với Việt Nam cơ cấu kinh tế và cơ cấu hàng hoá trao đổi dễ dẫn đến tình trạng quan hệ thương mại Việt Nam – Trung Quốc tiếp tục phát triển theo quan hệ hàng dọc, trong đó Việt nam xuất khẩu nguyên liệu, nông lâm thuỷ sản và nhập khẩu hàng công nghiệp của Trung Quốc. Điều đó sẽ bất lợi cho Việt Nam cả trong quan hệ thương mại lẫn trong cố gắng công nghiệp hoá nền kinh tế.
Bị “ép” ngay trên sân nhà bởi hàng hóa nhập khẩu cạnh tranh không lành mạnh nhưng các ngành của chúng ta chưa chính thức sử dụng bất kỳ biện pháp phòng vệ thương mại nào để đối phó.
Nông dân bán được mía với giá cao hơn niên vụ trước nhưng vẫn không hào hứng, nhiều vùng chuyên mía bị phá bỏ chuyển sang cây trồng khác khiến ngành mía - đường vẫn còn trong vòng luẩn quẩn.
Các chuyên gia của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) dự kiến Việt Nam sẽ là một trong những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao nhất châu Á trong năm nay, dựa vào việc tăng trưởng trong lĩnh vực như xây dựng và tiêu thụ nội địa.
Theo đánh giá của các hiệp hội, ngành hàng: Với những quy định mới sẽ có khoảng 75% tổng số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ phải chịu sự giám sát mạnh mẽ, song ba mặt hàng bị tác động lớn nhất là gỗ, dệt may và thủy sản. Phía Hoa Kỳ cũng sẽ thay đổi phương pháp kiểm tra hàng nhập khẩu từ ngẫu nhiên sang quay phim các lô hàng.
Theo báo cáo 6 tháng đầu năm của Viện kinh tế quốc gia: Xuất khẩu khá thấp trong những tháng đầu năm nay do tác động tiêu cực của cuộc khủng hỏang tòan cầu, và chưa có dấu hiệu lạc quan. Xuất khẩu được dự đóan là sẽ sụt giảm 12,2% trong năm nay do nhu cầu thế giới giảm và giá quốc tế thấp hơn.
Suy thoái kinh tế toàn cầu đã khiến Việt Nam phải chịu nhiều sức ép cạnh tranh từ bên ngoài. Nhiều chuyên gia cho rằng, cần phải có chiến lược, kế hoạch “dài hơi” để đối phó với thách thức này.
Khi kinh doanh tại các thành phố lớn ngày càng cạnh tranh gay gắt cùng nhu cầu tiêu dùng giảm, các đại gia điện máy đã mở cuộc "tiến quân" về tỉnh lẻ để “chiều” người dân ở quê.
Nhóm hàng điện tử viễn thông vẫn dẫn đầu nhóm ngành hàng xuất khẩu có “hàm lượng” FDI cao nhất và giá trị xuất khẩu thuộc hàng cao nhất. Tuy nhiên, hàm lượng FDI trong top 10 đã có sự sụt giảm đáng kể.
Tiểu thương tại đây hàng năm đều cam kết về nguồn gốc, xuất xứ sản phẩm, không bán hàng lậu và hàng nhái. Tuy nhiên, phần lớn đều cho rằng điều này rất khó khả thi.
Cục thống kê Tp.HCM vừa công bố chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 7/2014 của thành phố đã tăng 0,12% so với tháng trước và tăng 5,47% so với cùng tháng năm trước. Như vậy, tính từ đầu năm, CPI đã tăng 1,22%, cao hơn gấp đôi mức tăng của năm 2013 (0,66%).
Hiện nay, cuộc xâm lấn của hàng giả đã khiến người ta phải nhìn nhận lại tiêu chí của sự xa xỉ và khiến nhà chức trách các nước trên thế giới đau đầu tìm cách dẹp bỏ.
Thành tích xuất khẩu của Việt Nam lẽ ra sẽ còn cao và hiệu quả hơn nữa nếu quản lý nhà nước khắc phục được những hạn chế về cơ sở hạ tầng, tệ tham nhũng, tính khó tiên liệu của chính sách, và tạo giá trị gia tăng cho hàng hoá.
Bằng nhiều cách, hàng hóa Thái Lan đang ngày càng chiếm lĩnh thị trường Việt Nam và trong tương lai không xa có thể là một thách thức lớn cho hàng Việt.
Giá cá trên thị trường toàn cầu đã tăng lên mức cao nhất mọi thời đại do Trung Quốc có nhu cầu ngày càng lớn đối với những loại hải sản cao cấp như cá ngừ và hàu, trong khi sản lượng đánh bắt có chiều hướng giảm sút.
Các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá bán lẻ ở Việt Nam vẫn là lĩnh vực hấp dẫn nhất. Dù không như đồn đoán ban đầu các tập đoàn lớn sẽ tràn vào nuốt chửng thị trường Việt Nam, nhưng chỉ nhìn vào tốc độ mở rộng của Big C, Metro, Lotte... vừa qua cho thấy sức ép cạnh tranh đang nóng lên từng ngày.
Lại tương tự giá thuốc, giá thực phẩm chức năng cũng đang “nhảy múa thoải mái” khi giá mua vào với giá bán ra chênh nhau tới cả chục lần! Thị trường thực phẩm chức năng đang phát triển mạnh mẽ. Nhưng các quy định về quản lý thực phẩm chức năng đang tỏ ra quá lạc hậu. Phần quản lý giá của mặt hàng này đang bị thả nổi hoàn toàn.
Tháng 4, nhập khẩu đạt con số 6,95 tỷ USD, đưa tổng kim ngạch nhập khẩu 4 tháng qua lên hơn 24,8 tỷ USD. Với kim ngạch xuất khẩu 4 tháng là 20,1 tỷ USD, như vậy, nhập siêu những tháng đầu năm đã lên khoảng 4,7 tỷ USD, tương đương với hơn 23% kim ngạch xuất khẩu. Với cách làm như hiện nay, các chuyên gia cho rằng, mục tiêu kiềm chế nhập siêu dưới 20% trong năm nay là rất khó.
Mark Zimmeran – cựu cố vấn Chủ tịch Phòng thương mại của Mỹ ở Nhật Bản đã viết trong cuốn sách nổi tiếng “Làm ăn với người Nhật như thế nào” của ông: “việc nghiên cứu kỹ càng và nghiêm túc tâm lý người Nhật và cấu trúc xã hội của nước Nhật là cực kỳ cần thiết cho việc làm ăn có hiệu quả với người Nhật”.
Kim ngạch xuất khẩu quý I/2010 ước đạt 14 tỷ USD, giảm 1,6% so với cùng kỳ 2009. Kim ngạch nhập khẩu 3 tháng ước đạt 17,525 tỷ USD, tăng 37,6% so với cùng kỳ năm 2009. Trong đó, nhóm hàng nguyên nhiên vật liệu cần nhập khẩu tăng 35,3%; nhóm hàng cần kiểm soát nhập khẩu dự báo tăng khoảng 60,2% và nhóm hàng cần hạn chế nhập khẩu cũng tăng 33% so với cùng kỳ năm ngoái.
Sự phục hồi của kinh tế trong nước sẽ khiến nhu cầu nhập khẩu hàng hóa tăng, đặc biệt việc thực hiện giải ngân vốn FDI được dự báo tăng cao sẽ khiến nhập khẩu máy móc, thiết bị phục vụ cho hoạt động đầu tư, xây dựng và sản xuất cũng sẽ tiếp tục gia tăng mạnh. Dự báo kim ngạch nhập khẩu năm 2010 ước đạt 74,5 tỷ USD, tăng 6,5% so với năm 2009.
Hiệp định tự do thương mại ASEAN-Trung Quốc (ACFTA) về nguyên tắc có hiệu lực từ 01/01/2010, có lộ trình cắt giảm tới gần 7.000 dòng thuế. Indonesia đã yêu cầu đàm phán lại với TQ về việc hoãn thực thi ACFTA. Việt Nam hầu như vẫn chưa có một bộ hàng rào kỹ thuật đầy đủ cho các ngành sản xuất trong nước. Mối lo nhập siêu gia tăng từ TQ và mối lo nhiều Doanh nghiệp VN mất thị trường nội địa là có cơ sở....
Theo Tổng cục Thống kê, nhập siêu năm 2009 ước tính lên tới 12,246 tỷ USD, con số này thấp hơn nhiều mức nhập siêu thực hiện lên tới 18,029 tỷ USD của năm 2008, nhưng tăng gần 250 triệu USD so với mục tiêu đề ra.
Để nâng cao giá trị gia tăng cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam, góp phần phát triển bền vững nền kinh tế trong quá trình tham gia chuỗi giá trị cung ứng toàn cầu với những tiêu chuẩn ngày càng ngặt nghèo mà thị trường đặt ra, thì Việt Nam còn nhiều việc phải làm...
Xuất khẩu khoảng 25% tổng sản lượng gạo hàng năm, nhưng giá gạo xuất khẩu của Việt Nam ngày càng tụt dốc quá xa so với của Thái Lan trong thời gian qua, và những người nông dân vẫn không được hưởng lợi tương ứng với công sức của mình bỏ ra,....