Tin kinh tế, tài chính, đầu tư, chứng khoán,tiêu dùng

3. Quản lý chất lượng

3. Quản lý chất lượng:  

•        Quản lý chất lượng toàn diện (TQM) - Total Quality Management.

TQM trở nên mối quan tâm hàng đầu trong thập niên 1990, các doanh nghiệp đua nhau tìm kiếm một mô hình quản lý chất lượng tuyệt đối hòan hảo, thay vì phải thường xuyên điều chỉnh chất lượng cho phù hợp từng lúc và không chắc chắn.

TQM đã và đang được xem là một vũ khí chiến lược đối với các công ty muốn sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng cao, giá thành hạ so với đối thủ cạnh tranh của họ; các công ty Nhật Bản là một thí dụ điển hình, họ đang có khuynh hướng áp dụng hệ thống quản lý chất lượng TQM để đầu tư, điều chỉnh lại toàn bộ  quy trình sản xuất từ R & D đến tiếp thị và các dịch vụ có liên quan nhằm tránh mọi sai sót, với hệ thống này sản phẩm sẽ được đưa ra thị trường nhanh hơn, giảm thiểu tối đa mọi thiếu sót và đặc biệt là hạ được chi phí sản xuất từ 10%-50%. Những công ty đã áp dụng hệ thống TQM thường đạt được những kết quả ngoạn mục. VD: Công ty Electrolux sau khi áp dụng TQM đã giảm chi phí sản xuất  40%.

•        ISO 9000 (International Standards Organization)

Hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 được hình thành vào cuối thập niên 1980 bởi tổ chức Quốc tế về tiêu chuẩn hóa, hệ thống này quy định 5 tiêu chuẩn kỹ thuật và 12 công đoạn từ lúc nguyên liệu đưa vào nhà máy cho đến khi sản phẩm được đưa ra thị trường.

Ðã có trên 50 quốc gia, kể cả Mỹ và Liên minh Châu Âu đã tán thành các tiêu chuẩn quy định của ISO 9000. Nhiều chuyên viên kinh tế quốc tế cho rằng không bao lâu nữa ISO 9000 sẽ là một trong những tiêu chuẩn bắt buộc áp dụng cho các loại hàng hóa vì sản phẩm nào được chứng nhận bởi ISO 9000 sẽ có ảnh hưởng nhiều đối với thị phần.

ISO 9000 được đòi hỏi phải áp dụng trong mua bán hàng hóa thuộc các nước trong liên minh Châu Aâu, như vậy một nước nào đó muốn thâm nhập hàng hóa vào thị trường Châu Aâu phải đảm bảo về chất lượng theo ISO 9000.

Vào thời điểm 1992 đã có trên 20.000 công ty Châu Aâu và gần 1.000 công ty của Mỹ đã đăng ký và được công nhận theo điều kiện ISO 9000.

-        Vấn đề khó khăn hiện nay là các công ty đăng ký thực hiện ISO 9000 rất nhiều, nhưng các chuyên gia có thẩm quyền kiểm tra để cấp chứng nhận thì rất ít. Ðối với một công ty ở Châu Aâu từ lúc đăng ký cho đến khi có người đến xem xét phải mất từ 3-4 tháng và thường có 2/3 công ty đăng ký bị loại ngay kỳ xem xét đầu tiên. Một công ty muốn chuẩn bị tốt cho việc đăng ký này phải mất ít nhất 2 năm và chi phí cho việc điều chỉnh lại quy trình sản xuất tốn khoản vài trăm nghìn USD tuỳ thuộc vào quy mô sản xuất, dãy sản phẩm, các tiêu chuẩn chất lượng và kể cả công ty tư vấn được mời hay không.

-        Hãng Dupont đã từng đăng ký ISO 9000 cho trên 100 cơ sở và nhà máy sản xuất của họ và đã nhận được giấy đăng ký chất lượng vào loại rất tốt. Chi phí trung bình cho mỗi một cơ sở có trung bình 300 công nhân là 250.000USD và công ty này cho rằng chi phí này sẽ thu hồi rất nhanh bởi vì sự giao hàng đúng thời hạn tăng từ 70%-90% và thời gian lưu kho của hàng hóa giảm từ 15 ngày xuống còn 1,5 ngày; và do có ISO 9000 việc kinh doanh của họ cũng tăng lên đáng kể vì các đơn đặt hàng từ Châu Aâu đều đòi phải có ISO 9000 đối với sản phẩm.

Mặc dù các tiêu chuẩn của ISO 9000 là một cố gắng để hợp lý hóa việc sản xuất và đảm bảo chất lượng. Tuy nhiên có một số người nghĩ rằng đó chỉ là một rào cản mậu dịch, một sự quan liêu không cần thiết được thiết lập bởi Liên Hiệp Châu Âu.

-        Ngoài 2 hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 còn có các hệ thống quản lý chất lượng khác như:

-        Hệ thống đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm - HACCP(Hazard Analysis of Critical Control Point)

Ðây là một hệ thống quản lý chất lượng rất quan trọng đặc biệt áp dụng đối với các Xí Nghiệp chế biến lương thực và thực phẩm.

Hệ thống này tìm những điểm nào yếu nhất về việc đảm bảo vệ sinh trong xí nghiệp để giải quyết các điều đó.

-        FDA: Food & Drug Administration (Cơ quan quản lý chất lượng về thực phẩm và dược phẩm của Mỹ)

-        VINA CONTROL: Cơ quan quản lý chất lượng chủ yếu của Việt Nam.

Nhận xét chung về công tác quản lý chất lượng tại Việt Nam:

-        Việt Nam sẽ gặp khó khăn trong nhập khẩu, nếu không xây dựng kịp thời cho mình một hệ thống kiểm tra chất lượng nào đó, ít ra là một trong các hệ thống được giới thiệu trên. Hiện nay EU đã từ chối nhập hàng thủy sản chế biến của Aán Ðộ, Srilanka vì xí nghiệp của các nước này chưa đăng ký thực hiện ISO 9000

-        Việt Nam còn quá dễ dãi trong việc kiểm tra chất lượng hàng hóa, nguyên liệu nhập khẩu, khi nguyên liệu đầu vào của một sản phẩm có đảm bảo chất lượng thì đầu ra mới đảm bảo.

-        Trong việc nhập sản phẩm nước ngoài Việt Nam ít đòi hỏi các dữ kiện, thông số kỹ thuật đối với hàng công nghiệp và ít quan tâm đến hàm lượng, thành phần đối với hàng thực phẩm chế biến hoặc các loại hàng tiêu dùng khác.

-        Hướng tới, một mặt Việt Nam phải tự thân ngày càng nâng cao chất lượng trong quản lý sản xuất và đồng thời phải có sự kiểm soát chặt chẽ đối với chất lượng sản phẩm, nguyên liệu nhập vào.

Trong tương lai gần đảm bảo chất lượng hàng hóa là yêu cầu hàng đầu trong tất cả mọi thuộc tính của hàng hóa nếu không đảm bảo được điều này thì chiến lược sản phẩm thế giới sẽ không thực hiện được một cách có hiệu quả.
 

 

( Sưu tầm trên Internet)

  • Chương IV: Chính sách sản phẩm quốc tế
  • I. Chính sách sản phẩm
  • II. Quá trình hình thành và phát triển một sản phẩm
  • 2. Quá trình phát triển sản phẩm mới: (New product development process)
  • 3. Quản lý chất lượng
  • 4. Nghiên cứu và phát triển : (Research & Development)
  • III. Quyết định hệ sản phẩm (Product mix decision)
  • 2. Từng giai đoạn của sản phẩm trong chu kỳ sống
  • 3. Tiêu chuẩn hóa sản phẩm hay sản phẩm được sản xuất thích nghi với yêu cầu của thị trường
  • IV. Bao bì
  • V. Nhãn hiệu
  • Chương V: Định giá sản phẩm quốc tế
  • III. Chiến lược định giá xuất khẩu cơ bản
  • IV. Mối quan hệ của các chính sách giá xuất khẩu đối với giá nội địa
  • V. Chào giá (The Price Quotation)