Năm 2008, kim ngạch XNK hai chiều đạt 438,5 triệu USD, tăng tới 80% so với năm 2007. Đối mặt với những khó khăn do ảnh hưởng của khủng hoảng và suy thoái kinh tế thế giới, nhưng tính đến hết 9 tháng đầu năm 2009, tổng kim ngạch XNK giữa Việt Nam và Thổ Nhĩ Kỳ đạt 251,53 triệu USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt 187,02 triệu USD, kim ngạch nhập khẩu đạt 64,5 triệu USD.
Thổ Nhĩ Kỳ là nền kinh tế lớn thứ 6 của châu Âu và đứng thứ 15 trên thế giới, đồng thời giữ vai trò quan trọng với vị trí cửa ngõ, cầu nối châu Âu, Trung cận Đông và châu Á nên tiềm năng phát triển quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Thổ Nhĩ Kỳ rất lớn nhưng hiện còn hạn chế. Các mặt hàng xuất khẩu chỉnh của Việt Nam sang Thổ Nhĩ Kỳ gồm máy tính và sản phẩm linh kiện điện tử, giày dép, cao su tự nhiên, gỗ và sản phẩm gỗ, sản phẩm chất dẻo, chè, hàng lưu niệm, xe đạp và phụ tùng mây tre đan, cà phê, rau quả, gốm sứ…. Việt Nam đang nhập khẩu từ Thổ Nhĩ Kỳ phôi thép, sắt, thép, vật liệu xây dựng, bông, hoá chất, phụ tùng ôtô…
Tuy nhiên, hợp tác kinh tế Việt Nam - Thổ Nhĩ Kỳ vẫn chưa tương xứng với tiềm năng. Nguyên nhân chủ yếu là do thiếu thông tin giữa cộng đồng doanh nghiệp hai nước, các đối tác chưa hiểu biết nhiều lẫn nhau, công tác xúc tiến thương mại ở cả hai nước tiến hành chưa tốt, việc trao đổi các đoàn doanh nghiệp giữa hai bên còn hạn chế, các kỳ hội chợ triển lãm tại hai nước chưa có sự tham gia tích cực của doanh nghiệp hai bên.
Nếu như 9 tháng đầu năm 2008, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Thổ Nhĩ Kỳ đạt 43,35 triệu USD, thì 9 tháng năm 2009 giảm 2,29% đạt 42,35 triệu USD, tuy nhiên vẫn đứng đầu kim ngạch về các mặt hàng xuất khẩu sang thị trường này 9 tháng năm 2009; kim ngạch xuất khẩu mặt hàng giày dép 9 tháng năm 2009 đạt 11,3 triệu USD, giảm 10,7% so với cùng kỳ năm ngoái…
Theo Chủ tịch TOBB, Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế của Thổ Nhĩ Kỳ với khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Để phát triển quan hệ thương mại song phương từ kim ngạch XNK hai chiều 600 triệu USD năm 2008 (theo thống kê của Thổ Nhĩ Kỳ) lên 1 tỷ USD vào năm 2010, cả hai bên cần phải có những sáng kiến để thúc đẩy quan hệ Việt Nam - Thổ Nhĩ Kỳ một cách toàn diện trên nhiều lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư, du lịch… tăng cường phát huy những tiềm năng hợp tác lớn trong việc phát triển dịch vụ tài chính, du lịch, trao đổi công nghệ.
Về đầu tư, hiện nay các doanh nghiệp Thổ Nhĩ Kỳ đầu tư vào Việt Nam còn ở mức khiêm tốn. Tính đến cuối tháng 6/2008, tổng số vốn đầu tư của Thổ Nhĩ Kỳ vào Việt Nam mới chỉ đạt 34,05 triệu USD với 6 dự án và đứng thứ 45 trong số 81 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam.
Tình hình xuất khẩu của Việt Nam sang Thổ Nhĩ Kỳ tháng 9, 9 tháng năm 2009
ĐVT: USD
Chủng loại | Tháng 9 | 9 tháng |
Tổng kim ngạch | 24.029.393 | 187.025.609 |
Hạt tiêu | 346.005 | 3.877.702 |
Chất dẻo nguyên liệu | 315.462 | 16.947.247 |
Sản phẩm từ chất dẻo | 64.549 | 1.261.378 |
Cao su | 1.267.394 | 9.587.149 |
Gỗ và sản phẩm gỗ | 322.955 | 4.466.371 |
Hàng dệt, may | 4.675.607 | 42.359.667 |
Giày dép các loại | 60.054 | 11.320.947 |
Sắt thép các loại | 379.476 | 2.513.014 |
Máy vitính, sản phẩm điện tử và linh kiện | 1.139.504 | 3.870.495 |
Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác | 809.272 | 4.012.484 |
Phương tiện vân tải và phụ tùng | 102.975 | 756.956 |
(Vinanet)
Bài thuộc chuyên đề: Dự báo kinh tế Việt Nam 2010
Chuyển nhượng, cho thuê hoặc hợp tác phát triển nội dung trên các tên miền:
Quý vị quan tâm xin liên hệ: tieulong@6vnn.com