Tin kinh tế, tài chính, đầu tư, chứng khoán,tiêu dùng

Hệ thống pháp luật Hoa Kỳ (11): Ranh giới tài phán và lập chính sách - Phần 3

Tòa phúc thẩm phán quyết theo yếu tố pháp lý, chứ không phải yếu tố khách quan

Có một định đề trong thông lệ các tòa phúc thẩm bang và liên bang là các tòa án này nói chung không xét xử nếu cơ sở kháng cáo kháng nghị là thẩm phán hoặc bồi thẩm sơ thẩm đã tập hợp sai, hoặc xác định sai các yếu tố khách quan cơ bản cấu thành vụ việc. Không phải là thẩm phán và bồi thẩm sơ thẩm luôn xác định khách quan hoàn hảo. Thay vào đó, người ta tin rằng họ gần gũi hơn với các bên liên quan thực tế và bằng chứng vật chất của vụ việc, nên họ có thể đánh giá khách quan tốt hơn các cơ quan xét xử phúc thẩm, vốn chỉ được đọc tài liệu vụ án nhiều tháng hoặc nhiều năm sau khi phiên sơ thẩm xảy ra. Tuy nhiên, các vấn đề pháp lý, tức là áp dụng luật nào cho thực tế khách quan của vụ việc, và đánh giá khách quan đó như thế nào theo luật hiện hành, thì cần được xem xét lại theo trình tự phúc thẩm.

Tòa án tối cao không bị ràng buộc (về mặt kỹ thuật) bởi các tiền lệ

Nếu Tòa án tối cao được tự do đảo ngược hoặc phá vỡ các tiền lệ quá khứ và mang tính khống chế khi quyết định một vụ việc, thì dường như đây là một luận điểm ủng hộ cho xu hướng cấp tiến tư pháp – chứ không phải tự hạn chế. Tuy nhiên, tập quán này là một trong những nguyên tắc tự hạn chế. Nếu Tòa án tối cao bị ràng buộc không lối thoát bởi sự sai khiến của các phán quyết trước, thì nó sẽ rất kém linh hoạt. Nhờ việc tự cho phép mình thỉnh thoảng được tự do đảo ngược một quyết định quá khứ hoặc bỏ qua một tiền lệ đã trở thành quy định khống chế, Tòa án tối cao đã thiết lập được một lối thoát an toàn để có thể rút lui nếu cần. Khi sự suy xét sáng suốt ra lệnh cho Tòa án thay đổi đường hướng, hoặc duy trì tư tưởng cởi mở, thì nguyên tắc tự hạn chế này sẽ được sử dụng.

Các giải pháp khắc phục khác phải được xem xét cho hết

Một nguyên tắc tự hạn chế nữa thường làm cho các nguyên đơn nổi khùng, thất vọng là một yếu tố cực kỳ quan trọng để có thể kiểm soát công lý một cách trật tự: Các tòa án ở Hoa Kỳ sẽ không chấp nhận một vụ việc nếu chưa tính hết khả năng thực hiện các giải pháp khắc phục khác, kể cả pháp lý lẫn hành chính. Theo nghĩa giản đơn, chủ thuyết này có nghĩa là một người phải leo từng nấc thang của quá trình khiếu kiện pháp lý. Các vụ án liên bang đầu tiên phải được xét xử ở tòa sơ thẩm Hoa Kỳ, tiếp đó được xem xét lại tại một cơ quan xét xử phúc thẩm, và cuối cùng mới được xét xử tại Tòa án tối cao. Thủ tục thứ tự diễn biến này phải được tuân thủ cho dù nội dung vụ việc hay người đệ đơn có quan trọng đến đâu. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định, trình tự phúc thẩm có thể được rút ngắn.

Hết khả năng thực hiện các giải pháp khắ c phục khác có nghĩa là hết khả năng thực hiện giải pháp hành chính hay phải tuân thủ nguyên tắc cấu trúc tư pháp ba cấp. Giải pháp hành chính có thể nằm dưới dạng khiếu nại lên một viên chức hành chính, xét xử tại một hội đồng hoặc ủy ban, hoặc được cơ quan lập pháp xem xét chính thức một vấn đề nào đó.

Tòa án không xét xử các “yếu tố chính trị”

Đối với thẩm phán Hoa Kỳ, hai ngành hành pháp và lập pháp của chính quyền là những ngành mang tính chính trị vì nó được dân bầu lên để lập chính sách công. Còn tư pháp thì ngược lại, các Nhà lập quốc không thiết chế ngành này thành một công cụ để thể hiện ý chí chung, và do đó không mang tính chính trị. Theo hướng luận giải này thì các yếu tố chính trị cần được giải quyết bởi một trong hai ngành kia của chính quyền.

Ví dụ, khi bang Oregon trao quyền cho công dân được bỏ phiếu thông qua các sáng kiến và các cuộc trưng cầu dân ý phổ thông vào khoảng năm 1900, Công ty điện thoại và điện tín các bang Thái Bình Dương đã phản đối. (Công ty này sợ rằng các cử tri sẽ bỏ qua các văn kiện lập pháp hỗ trợ kinh doanh và thông qua các đạo luật hạn chế đơn giá và lợi nhuận của mình). Công ty cho rằng Điều IV, Mục 4 của Hiến pháp bảo vệ “Hình thái Chính phủ Cộng hòa” ở mỗi bang – thuật ngữ được cho là đã quy định rằng, chỉ có các đại diện của dân mới được ban hành luật, chứ không phải trực tiếp người dân. Tòa án tối cao từ chối đưa ra phán quyết về sự phải trái của vụ việc, Tòa tuyên bố vấn đề này mang yếu tố chính trị. Cơ sở phán quyết của Tòa là Điều IV chủ yếu quy định nhiệm vụ của Quốc hội, và nó cho rằng các Nhà lập quốc muốn Quốc hội, chứ không phải tòa án, được quyền giám sát hình thái chính quyền ở các bang.

Trong những thập niên gần đây, đã xuất hiện một xung đột về việc nên coi việc điều chỉnh ranh giới hạt lập pháp là một vấn đề chính trị hay phi chính trị. Trước năm 1962, đa số thành viên Tòa án tối cao từ chối phán quyết về tính hợp hiến của các hạt lập pháp có số dân không đều, vì cho rằng đây không phải là vấn đề “có thể xét xử”, và Tòa án không dám xâm phạm cái mà Thẩm phán Felix Frankfurter gọi là “bụi rậm chính trị”. Theo lối tư duy truyền thống của Tòa án tối cao, thì các Nhà lập quốc muốn các cơ quan lập pháp tự phân chia ranh giới hạt – có lẽ là cùng với ý kiến của cử tri. Tuy nhiên, với phán quyết của Tòa án tối cao trong vụ Baker kiện Carr (1962), đa số đã thay đổi quan điểm đó. Từ thời điểm đó, Tòa án tối cao đã quyết định nhiều vụ việc theo hướng điều luật bảo vệ công bằng theo Tu chính án Hiến pháp thứ mười bốn, yêu cầu các hạt lập pháp phải có số dân tương đương, và hơn nữa, các tòa án phải xem xem quy định đó đã được thực hiện hay chưa.

Trách nhiệm cung cấp chứng cứ thuộc về người đệ đơn


Các luật gia của quốc gia nói chung đều nhất trí là người nào khiếu kiện tính hợp hiến của một đạo luật phải có trách nhiệm cung cấp chứng cứ. Do đó, nếu một người muốn tấn công một đạo luật nào đó, thì họ phải làm rất nhiều việc chứ không chỉ đơn thuần nêu được là đạo luật đó “có vấn đề hay đáng nghi ngờ về tính hợp hiến”; người đệ đơn phải thuyết phục tòa án rằng chứng cứ chống lại đạo luật đó là rõ ràng và phổ biến.

Chỉ có một ngoại lệ đối với nguyên tắc này là trong lĩnh vực quyền công dân và tự do công dân. Một số luật gia ủng hộ mạnh mẽ quyền tự do công dân từ lâu đã cho rằng nếu chính quyền cố gắng hạn chế các quyền tự do con người cơ bản, thì trách nhiệm đưa ra chứng cứ phải chuyển sang cho chính quyền. Và trong một số lĩnh vực cụ thể của ngành luật quyền công dân, triết lý này đã trở nên phổ biến. Ví dụ, Tòa án tối cao Hoa Kỳ đã phán quyết trong nhiều vụ rằng các đạo luật đối xử con người khác biệt theo chủng tộc hay giới tính sẽ tự động bị “soi xét đặc biệt” (special scrutity). Điều này có nghĩa là trách nhiệm chứng cứ chuyển sang chính quyền, buộc chính quyền phải chứng minh là có một nhu cầu bắt buộc và có tầm quan trọng vượt trội trong việc phân biệt con người theo xuất xứ dân tộc hoặc giới tính. Ví dụ, từ lâu chính quyền đã lý luận (và đã thành công) rằng cần có một số hạn chế lớn đối với phụ nữ trong quân lực để tránh cho họ không phải thực hiện các nhiệm vụ chiến đấu trực tiếp.

Chỉ bác bỏ luật trên cơ sở hẹp nhất

Đôi khi trong một phiên xét xử, một thẩm phán nhận thấy rõ ràng một văn kiện lập pháp hay một hành động hành pháp đã vi phạm nghiêm trọng Hiến pháp. Tuy nhiên, ngay cả trong trường hợp này thì các luật gia vẫn hành động rất thận trọng. Đầu tiên, thẩm phán có thể chọn phương án vô hiệu hóa một hành động hành pháp trên cơ sở luật định, chứ chưa phải hiến định. Vô hiệu hóa luật định có nghĩa là một thẩm phán bác bỏ một hành động hành pháp vì viên chức hành pháp đã hành động vượt quá thẩm quyền được luật cho phép. Phán quyết đó có ý nghĩa bảo vệ luật nhưng vẫn vô hiệu hóa được hành động sai trái của viên chức hành pháp. Thứ hai, là các thẩm phán có thể (nếu có khả năng) chỉ vô hiệu hóa một phần của đạo luật mà họ cho là có lỗi về mặt hiến định, chứ không bác bỏ toàn bộ đạo luật.

Không phán quyết về “sự sáng suốt” của cơ quan lập pháp

Nếu được tuân thủ nghiêm khắc, nguyên tắc này có nghĩa là cơ sở duy nhất để tuyên bố một đạo luật hoặc một hành vi hành pháp vi hiến là cho rằng nó vi phạm từng chữ của Hiến pháp. Các đạo luật không xâm phạm Hiến pháp chỉ vì nó không công bằng, lãng phí tài chính, hoặc cấu thành một chính sách công tồi tệ. Nếu thực sự xem xét cẩn thận, thì điều này có nghĩa là thẩm phán và đại thẩm phán không được tự do vận dụng các quan niệm cá nhân về đúng sai, hoặc quan niệm chính sách công tốt xấu khi xem xét tính hợp hiến của văn kiện lập pháp.

Một hệ quả phụ khác của nguyên tắc này là có thể một đạo luật được thông qua và được mọi người nhất trí là một đạo luật tốt và khôn ngoan, nhưng vẫn bị coi là vi hiến; ngược lại, một đạo luật có thể hợp pháp hóa hành vi của quan chức hành pháp bị mọi người coi là tồi tệ và nguy hiểm, nhưng vẫn không vi phạm Hiến pháp.

Nguyên tắc không phán quyết về “tính sáng suốt” của các đạo luật là một nguyên tắc khó tuân thủ trong thực tiễn. Đó là vì Hiến pháp là một tài liệu khá ngắn gọn, không đề cập đến nhiều lĩnh vực của đời sống công và chứa một số câu chữ và lời khuyên răn có thể có nhiều cách lý giải khác nhau. Ví dụ, Hiến pháp quy định Quốc hội được điều chỉnh thương mại xuyên bang. Nhưng chính xác thế nào là thương mại, và phạm vi của nó rộng đến mức nào khi chưa thêm chữ “xuyên bang”? Thẩm phán cũng là con người, và họ có nhiều cách trả lời khác nhau đối với câu hỏi này. Hiến pháp bảo vệ một người bị truy tố về một tội phạm nào đó có quyền được luật sư bào chữa. Nhưng quyền này có được duy trì khi người đó kháng cáo yêu cầu một phán định có tội hay không, nếu có thì bao nhiêu kháng cáo? Những người giải thích luật chặt chẽ và những người giải thích luật lỏng lẻo đã đưa ra những câu trả lời khác nhau.

Tóm lại, mặc dù việ c đưa giá trị cá nhân của thẩm phán vào trong cách diễn giải nhiều phần của Hiến pháp là không thể trá nh khỏi, nhưng hầu như các luật gia đều tán thà nh nguyên tắc chung là các đạo luật chỉ có thể bị vô hiệu hóa nếu nó vi phạm Hiến pháp, chứ không phải theo ý thích cá nhân của thẩm phán.

 

(Nguồn: Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam)