Tin kinh tế, tài chính, đầu tư, chứng khoán,tiêu dùng

Thị trường Australia (18): Kênh nhập khẩu và phân phối: Phần 3: Sự tăng giá và thuế dịch vụ

4. Sự tăng giá trong kênh phân phối

Chi phí điều hành doanh nghiệp ở Australia, đặc biệt là chi phí lao động, tương đối cao và sự tăng giá trong hệ thống phân phối nhập khẩu phản ánh thực tế này.

Giống như ở hầu hết các thị trường khác, sự tăng giá do các nhà nhập khẩu / người bán buôn và người bán lẻ Australia áp dụng không chỉ phản ánh mức độ cạnh tranh mà còn thế hiện khối lượng hàng bán dược của từng công ty.

Ví dụ, những người bán buôn và bán lẻ các mặt hàng quà tặng nhập khẩu độc quyền sẽ có lãi rất cao, trong khi những người bán lẻ các mặt hàng may mặc thông thường buộc phải cạnh tranh nên áp dụng mức tăng giá thấp nhất có thể.

Tuy nhiên, việc tăng giá trong các ngành hàng khác nhau trên thị trường nhìn chung như sau:

•    Đại lý mua hàng Ở nước ngoài 1 đại lý hưởng hoa hồng của Australia: khoảng
•    từ 3-6% giá FOB;
•    Nhà nhập khẩu 1 bán buôn những mặt hàng tiêu dùng số lượng lớn: từ 40-80 %
•    giá nhập khẩu (đã tính thuê) tùy thuộc vào từng mặt hàng;
•    Các cửa hàng bách hóa giảm giá: 35-40% giá bán;
•    Các cửa hàng bách hóa: 40-75% giá bán;
•    Các cửa hàng bán lẻ qui mô nhỏ: 50-100% giá bán;
•    Các chuỗi siêu thị: 15-35% giá bán

Trên thực tế, điều này có nghĩa như sau ví dụ, giá bán lẻ của mặt hàng may mặc thông thường nhập khẩu thưởng cao hơn gấp bốn lần so với giá FOB, trong khi các mặt hàng may mặc nhập khẩu độc quyền dược bán ở một cửa hàng bách hóa hoặc cửa hàng nhỏ có thể gấp sáu hoặc tám lần giá FOB.

Các nhà cung cấp nước ngoài vì thế không nên coi giá bán lẻ cao ở Australia là sự thiếu cạnh tranh trên thị trường. Ngành công nghiệp bán lẻ Australia thực sự là một trong những ngành cạnh tranh nhất trên thế giới và người mua hàng sẽ cố gắng để mua được với giá rẻ nhất từ các nhà cung cấp nước ngoài.

Nói một cách đơn giản, giá bán lẻ cuối cùng ở Australia thường cao hơn ở Hoa kỳ nhưng giá người mua Australia chấp nhận từ người cung cấp thường thấp hơn giá người mua Hoa Kỳ chấp nhận.

5. Thuế hàng hóa và dịch vụ

Kể từ ngày 11712000, Chính phủ Liên bang Australia dã ban hành và áp dụng mức khung 10% đối với thuế hàng hóa và dịch vụ (Goods and Services Tax - GST), thay thế thuế doanh thu bán buôn và một số thuế khác.

GST do nhà nhập khẩu trả được tính đối với các mặt hàng nhập khẩu thuộc diện chịu thuế. Cục Hải quan Australia thu thuế GST từ các nhà nhập khẩu hàng hóa tại thời điểm nhập khẩu. Tuy nhiên, Austraha cũng có kế hoạch thực hiện việc cho phép thanh toán trả chậm thuế GST đối với những nhà nhập khẩu đạt tiêu chuẩn quí định.

Australia không áp dụng qui định về đăng ký dối với các mặt hàng nhập khẩu thuộc diện chịu thuế, và nhà nhập khẩu không nhất thiết phải là một doanh nghiệp.

Một số mặt hàng nhập khẩu không thuộc diện chịu thuế bao gồm các mặt hàng nhập khẩu để sửa chữa hoặc bảo hành, các mặt hàng có giá trị thấp hơn một mức nhất định, khoang chứa hàng trên tàu và máy bay và một số ưu đãi dành cho hành khách, thuỷ thủ hoặc phi hành đoàn. Thực phẩm tươi sống, chưa qua chế biến dược miễn thuế GST.

Thuế suất GST đối với mặt hàng nhập khẩu thuộc diện chịu thuế là 10% giá trị hàng hóa.

Giá trị hàng hóa bao gồm:

•    Giá trị khai báo thuế quan của hàng hóa;
•    Chi phí phải trả hoặc có thể phải trả để chuyên chở hàng hóa tới Australia.
•    Chi phí bảo hiểm chuyên chở hàng hóa tới Australia (chưa bao gồm trong trị giá tính thuế)
•    Bất kỳ một khoản thuế hải quan nào phải trả cho việc nhập khẩu hàng hóa.
 

( Nguồn: Sưu tầm trên internet )