
Seedlink chiêu sinh hè 2015 các lớp học hát cho trẻ em tại Hà Nội
Seedlink chiêu sinh hè 2015 các lớp học múa cho trẻ em tại Hà Nội
7. Ðiện ảnh.
7.1. Ðiện ảnh trẻ Ðức.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, điện ảnh cả Ðông Ðức lẫn Tây Ðức đều đi sâu vào thảm họa quốc gia đó ( chỉ có vài tác phẩm như: "Bọn sát nhân ở giữa chúng ta" của Wolfgang Staude, "Hôn nhân trong bóng tối" của Kurt Maetzig, "Giữa hôm qua và ngày mai" của Harald Braun). Nhưng chẳng bao lâu sau đó , điện ảnh hai miền đã đi theo hai ngã đường khác nhau phù hợp với sự phát triển chính trị khác nhau.
Ði đôi với quá trình tái thiết thành công ở Tây Ðức chủ yếu là các bộ phim về quê hương đất nước quen thuộc , né tránh các cuộc tranh luận về chính trị nhưng thỉnh thoảng cũng có bình luận theo cách châm biếm ("chúng ta là thần đồng" của đạo diễn Kurt Hoffmann vào năm 1946).
Phim Cộng hòa Liên Bang Ðức bắt đầu nở rộ về nghệ thuật vào những năm 60 và 70 .Trên nền tảng "Tuyên ngôn Oberhausen" , trong đó các nhà làm phim năm 1962 đã đòi hỏi một nghệ thuật điện ảnh không bị ràng buộc bởi các quy ước thông thường hay áp lực thương mại, vào giữa những năm 60, "điện ảnh trẻ của Ðức" đã ra mắt, hàm chứa một sự chuyển đổi thế hệ và đem đến một xu hướng thẩm mỹ mới. Các khuynh hướng thử nghiệm, tham vọng về hình thức xã hội là đặc điểm của những bộ phim tác giả? của Alexander Kluge("Chia tay với hôm qua", 1966), Jean -Marie Straub( "Biên niên sử của Anna Mongdalena Bach", 1965)..vv.
Nhà làm phim sáng tạo nhất và có hiệu suất cao nhất trong số này là Rainer Werner Fassbinder người nhằm vào những cá nhân bị dồn nén và những mâu thuẫn trong lịch sử Ðức qua những hình thức thể hiện phong phú và câu chuyện đa dạng - dựa vào thể kịch bình dân đã vươn đến những bộ phim lớn như : "cuộc hôn nhân của Maria Braun (1978)", " Berlin Alexanderplatz(1980) và Lola (1981)" . Fassbinder đoạt giải thưởng lớn tại Liên hoan phim Berlin 1982 với "Nỗi nhớ" của Veronika Voss.
Trong những năm 80 , các nhà làm phim đại diện cho trào lưu điện ảnh trẻ Ðức ngày càng thành công trên trường quốc tế. Năm 1979, Volker Scholondoff đoạt giải cành cọ vàng tại Cannes với và năm 1980 đoạt một giải Oscar tịa Hollywood cho bộ phim chuyển từ thể loại tiểu thuyết "Cái trống thiết" của Gunther Grass. Năm 1984 , Wim Wenders nhận giải cành cọ vàng với phim Paris Texas và năm 1987 ông làm thế giới điện ảnh ngạc nhiên với bộ phim "Bầu trời Berlin". Giải đạo diễn xuất sắc năm 1982 tại Cannes thuộc về Werner Herzog? với bộ phim gây ấn tượng "Fitzcarraldo", bộ phim diễn tả bi kịch của thứ chủ nghĩa cá nhân điên rồ trong môi trường ngoại lai . Quan tâm? phê phán những mối quan hệ trong nước, Margaretthe von Trotta đã trở nên nổi tiếng với các chân dung phụ nữ đầy ấn tượng trong các phim như: " Thời kỳ nặng nề" và "Rosa Luxemburg"
Mặc dù có những thành công kể trên, song sự hưng thịnh bắt nguồn từ điện ảnh trẻ Ðức không bền lâu. Khi phong trào 68 mang tính phê phán xã hội lụi tắt, nền điện ảnh Mất đi hậu thuẫn về chính trị, và nói chung "phim tác giả" không thiết lập được một nền tảng chắc chắn về nền kinh tế đủ sức chống chọi với làn sóng tấn công của phim thương mại Mỹ đang mạn trở lại.
7.2. Ðiện ảnh Cộng hòa dân chủ Ðức.
Ðược sản xuất mởi hãng phim độc quyền DEFA, điện ảnh - được nhà nước tài trợ và kiểm soát - của Cộng hòa dân chủ Ðức phục tùng các mục tiêu chính trị của đảng cầm quyền. Phim tuyên truyền ra mắt ở mọi thể loại. Mặt khác, các nghệ sĩ tìm cách thoát khỏi những ràng buộc trong sáng tạo. Dao động giữa thành công và thất bại của các phim DEFA đem đến sự phản ánh thời đại đầy mâu thuẫn, đồng thời nêu bật những hình ảnh chân thực của cuộc sốn, tính khách quan nghệ thuật và cả chất lượng phim xuất sắc.
Những thăng trầm này trước hết đến với xưởng phim Babelsberg. Giai đoạn đầu của xưởng phim này do Wolfgang Staudte định đoạt về mặt nghệ thuật. Năm 1951, ông quay bộ phim Kẻ bề tôi - một tác phẩm trào phúng nổi tiếng dựa theo tiểu thuyết của Heinrich Mann, nhưng rồi do mâu thuẫn với " chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa", ông quay lưng với điệnảnh Cộng hòa Dân chủ Ðức. Cuối những năm 1950, Ðảng cốngản không cho phép đưa ra chiếu một số bộ phim, ví dụ Những phim Berlin của Gerherd Klein và Wolfgang Kohlhaase. Năm 1965, hầu hết các tác phẩm điện ảnh trong năm chỉ reích những hiện trạng của " chủ nghĩa xã hội có thật" đều bị dừng. Năm sau đó, phim Dấu vết của đa ?của Frank Beyer - một bộ phim vật lộn dữ dội với hiện thực đương thời - đã bị dừng ngay sau khi trình chiếu.
Các phim "chống phát xít" của DEFA phê phán tội lỗi Ðức cũng là một cách để tránh né bức tranh đưong thời lẽ ra phải được lột tả. Một trong những phim đầy ấn tượng là Năm tới mười chín tuổi (1967) của Konrad Wolf. Trong thập niên 70 đã có thể xuất hiện một số phim mang tính thử nghiệm, góc cạnh về hiện thực đương thời (Những chiếc chìa khóa của Egon Gunther (1974), cùng với Truyền thuyết về Paul và Paula (1973) của Heiner Carow đã gặt hái thành công lớn). Hình ảnh của một nước Cộng hòa dân chủ Ðức không có những ảo tưởng được thể hiện trong bộ phim Solo Sunny (1980) của Konrad Wolf - đạo diễn nổi tiếng nhất của DEFA, mất năm 1982. Tiếp đó là những phê bình với giá trị nghệ thuật cao khác ( Những cuộc thám hiểm, năm 1982 của Roland Graf), nhưng không lâu sau xưởng phim hầu như bị buộc phải ngừng hoạt động do các biện pháp của Ðảng. Ngược lại, mảng phim tài liệu lại xây dựng được một khuynh hướng vừa hiện thực, vừa giàu chất thơ ( Nhân viên hỏa xa, 1984 của Jurgen Bưtteher; Cuộc sống ở Wittstock, 1984 của Volker Koepp, Tạm biệt mùa đông, năm 1988 của Helke Misselwitz).
Sau thống nhất nước Ðức năm 1990, hãng phim nhà nước DEFA ngừng sản suất. Tuy nhiên, xưởng phim giàu truyền thống (trước kia thuộc Ufa) ở gần Babelsberg gần Berlin đã có những bước nhảy vọt tới tương lai: hiện nơi đây đã được mở rộng thành một trung tâm truyền thông hiện đạo, điểm hội tụ của rất nhiều hãng cà cơ sở sản xuất phim.
7.3. Những xu hướng hiện đại.
Một mặt, thập niên 1990 được đánh dấu bởi những khó khăn trong việc hội nhập của điện ảnh Ðông Ðức - việc hội nhập này thành công chủ yếu với các nghệ sĩ và nhà sản xuất trẻ, đặc biệt trong lĩnh vực truyền hình. Mặt khác, tình hình chung của điện ảnh? được khắc họa mởi những bộ phim Mỹ ngày càng thống trị thị trường, đẩy lùi không chỉ phim Ðức mà cả phim châu Âu nói chung.
Chỉ một và phim Ðức trụ được trong các dạp chiếu - như các phim của Joseph Vilsmaier (Người anh em của giấc ngủ, năm 1995, Những nhạc sĩ hài, năm 1997) hay phim của Helmut Dieft - người với tác phẩm trào phúng xã hội sắc bén Schtonk đã soi mói sự phát hiện tưởng tượng những cuốn nhật ký của Hitler trên tạp trí Stern, và Rossini (1996) phơi bày sự phù phiếm trong chính làng điện ảnh.
Nhóm phim hài và trào phúng dần hình thành và dể dàng thu hút khán giả trong nước đến với điện ảnh Ðức (Chẳng ai yêu tôi, năm 1995 của Doris Dưrrie, Người đàn ông xúc động, năm 1994 của Sưnke Wortmann). Với sự hài hước mang tính chủ quan, những bộ phim này chưa vượt nổi biên giới quốc tế, tuy nhiên đã dấy lên sự nhảy vọt trong nền điện ảnh Ðức. Mặc dù một số ít tác phẩm có được sự chú ý quốc tế - ví dụ phim đầu tay của Romuald Karmaker Kẻ tạo ra cái chết, năm 1995, trong đó Gưtz George đóng vai một kẻ giết người hàng loạt, cho tới lúc này, điện ảnh Ðức hiên tại vẫn chưa đạt được sự công nhận quốc tế như điện ảnh Ðức ngày nào.
Thời kỳ 1996 - 2000 có những dấu hiệu đầy hứa hẹn. Chạy đi Lola, một phimtâm lý hiện sinh củaTom Tykwer , đạt thành công quốc tế. Thành công bất ngờ nữa là bộ phim đầu tay Ðại lộ mặt trời, trong đó đạo diễn sân khấu Ðông Ðức Leander Haussmann hồi tưởnglại tuổi trẻ của mình ở Cộng hòa dân chủ Ðức một cách khôi hài. Những người không thể động đến của Oskar Roehler - bộ phim phản ánh những tranh luận về ý thức thế thệ ở Ðức - cũng được hoan nghênh. Và những " bậc thầy cũ" đã xuất hiện trở lại - như Volker Schlưndorff với phim Yên lặng sau phát súng, Wim Wenders với? bộ phim tài liệu lôi cuốn Câu lạc bộ xã hội Buena Vista mô tả một nhóm nhạc công giã từ Havana, và Wender Herzog, người? hồi tưởng đến nam diễn viên quan trọng nhất trong các phim của ông?- Klaus Kinski - với phim Kẻ thù thân yêu nhất của tôi.
Sự mới mẽ trong làng điện ảnh Ðức ngày nay còn được phản ánh qua việc các công ty Ðức được cổ phần hóa, nhiều phim được hợp tác sản xuất quốc tế và những phim lớn được tàu trợ. Ðóng góp của Ðức cho thị trường phim quốc tế? được đảm bảo bởi những nhà sản xuất như Bernd Eichinger cũng như các đạo diễn Wolfgang Peterson và Roland Emmerich -? những người đã tạo lập được chỗ đứng ở Hollywood.
7.4. Các rạp chiếu phim, liên hoan phim và tài trợ điện ảnh.
Năm 1999, khoảng 1.180 rạp chiếu phim ở Ðức với xấp xỉ 4.650 phòng chiếu đã phục vụ hơn 1.490 triệu lượt người. Số khán giả xem phim ngày càng đông là nhờ điện ảnh Ðức phát triển mạnh. Ðầu tư vào rạp chiếu phim Ðức ở mức cao chưa từng thấy: Việc xây dựng các rạp chiếu phim liên hợp với sự đầu tư của các tập đoàn truyền thông và các doanh nghiệp quốc tế kể từ đầu những năm 1990 đang làm thay đổi về cơ bản uang cảnh các rạp chiếu phim Ðức. Tại nhiều thành phố, các trung tâm giải trí đa năng này - đặc biệt được giới trẻ đón nhận - đang thay thế các rạp chiếu bóng truyền thống.
Nhiều liên hoan phim được tổ chức tốt và có ảnh hưởng rộng đóng vai trò quan trọng trong việc thiết lập chỗ đứng cho phim Ðức trên thị trường nội địa cũng như tạo uy tín nước ngoài.
Diễn đàn quan trọng nhất cho phim ảnh là Liên hoan phim quốc tế ở Berlin (liên hoan "Berlinale"), ra đời năm 1951, một trong những liên hoan phim có ý nghĩa nhất ở châu Âu bên cạnh các liên hoan Cannes và Venice, và nhờ đó trở thành một trong những địa điểm giao lưu đáng kể của giới nghệ sĩ điện ảnh và sản xuất phim. Ngoài ra, các liên hoan phim ở Mannheim, Oberhausen và Leipzig cũng có vị thế quốc tế, và cả các liên hoan phim và liên hoan định hướng chuyên sâu ở Hof, Munchen, Lubeck, Hamburgm cũng như các thành phố khác cũng vừa đặt các phim nội địa vào bối cảnh điện ảnh quốc tế, vừa đóng góp cho sự phát triển nghệ thuật điện ảnh và sự ổn định kinh tế.
Tuy vậy, mặc dù có những thành công mà điện ảnh Ðức đã lại đạt được, lịch chiếu phim tại các rạp vẫn bị những bộ phim được sản xuất và tiếp thị công phu của Mỹ thống trị - do Ðức là thị trường quan trọng nhất của Hollywood ở châu Âu. Bên cạnh đó, các rạp chiếu phim phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt từ phía truyền hình và các phương tiện truyền thông khác - đặc biệt với các dịch vụ giải trí ngày càng đa dạng của truyền hình tư nhân cũng như truyền hình cáp và vệ tinh, truyền hình trả tiền và video. Mặt khác, ngày nay, nhiều phim truyện nhựa được hợp tác sản xuất với các đài truyền hình.
8. Nhà hát.
Nói đến sân khấu Ðức, trước hết phải nói đến khoảng 180 nhà hát công cộng trên toàn đất nước, đó là các nhà hát thành phố, nhà hát quốc gia, nhà hát giao hưởng và nhà hát địa phương. Thêm vào đó là khoảng 190 nhà hát tư nhân và trên 30 nhà hát dành cho lễ hội. Ngoài ra còn có vô số các nhóm sân khấu độc lập và nhà hát nghiệp dư. Phong phú là đặc tính của đời sống sân khấu Ðức. Thay vì một "kinh đô sân khấu" thu hút mọi nhân tài và mọi sự chú ý-ví đụ như Paris ở pháp - Cộng hòa Liên bang Ðức có rất nhiều nhà hát thường xuyên đạt chất lượng không hề thua kém nhau. Sự đa dạng này mang tính truyền thống: vào thế kỷ XIX và XVIII, hầu như mỗi lãnh được trang bị nhiều tiền của. Vào thế kỷ XIX, dưới ảnh hưởng ngày càng lớn của giai chúa đều rất tự hào về nhà hát cung đình của riêng mình và phần lớn các nhà hát này cấp tư sản, nhiều thành thị đã biến các nhà hát thành các địa điểm công cộng.
Nhà hát đa chức năng là nơi trình diễn chung của nhiều loại hình nghệ thuật sân khấu, múa và sân khấu âm nhạc (nhạc kịch, tiểu nhạc kịch, ca nhạc) đa dạng. Các nhà hát kiểu này trình diễn khoảng 20 -30 tác phẩm khác nhau mỗi mùa diễn. Hàng năm, khoảng mười tác phẩm mới được dàn dựng. Nhờ đó người xem có cơ hội làm quen với nhiều tác phẩm kịch và sân khấu âm nhạc trong thành phố. Bên cạnh đó còn có các nhà hát múa rối, nhà hát cho trẻ em và thanh, thiếu niên - hoặc dưới hình thức là một phần của nhà hát đa năng, hoặc hoạt động hoàn toàn độc lập.
Ngược lại, nhà hát nhạc trong suốt nhiều tháng, thậm chí nhiều năm hàng ngày vẫn trình diễn chỉ một tác phẩm.
Còn các nhà hát nhỏ thường trình diễn một tác phẫm liên tục trong vài tuần rồi chuyển sang tác phẩm mới.
Gương mặt nghệ thuật của một nhà hát phụ thuộc rất nhiều vào đoàn nghệ sĩ. Việc xây dựng và duy trì đoàn nghệ sĩ có vai trò đặc biệt quan trọng đối với các nhag hát. Ðặc biệt, các nhà hát bang và thành thị có biên chế cho các diễn viên, ca sĩ và vũ công.
Sân khấu Ðức góp phần vào giao lưu văn hóa quốc tế và quá trình hợp nhất châu Â. Ðóng góp phần quan trọng là những liên hoan như " Nhà hát thế giới" ở Berlin, hay "Bonner Biennale". Tại liên hoan văn hóa thế giới "Những chân trơi" ở Berlin, những nền văn hóa châu Âu và ngoài châu Âu giao lưu? với nhau. Ngoài ra còn có sự trao đổi các vở dựng riêng lẻ với các nhà hát nước khác, cũng như sự hợp tác với các diễn viên, ca sĩ, vũ công, giám đốc nhà hát, nhạc trưởng, đạo diễn, các nhà thiết kế sân khấu và các cộng sự nước ngoài. Thành công lớn trên lĩnh vực này có nhà "Theater an der Ruhr" tại Mulheim, đây là một ví dụ tiêu biểu.
( Nguồn: sưu tầm trên internet )
Chuyển nhượng, cho thuê hoặc hợp tác phát triển nội dung trên các tên miền:
Quý vị quan tâm xin liên hệ: tieulong@6vnn.com