Seedlink chiêu sinh hè 2015 các lớp học hát cho trẻ em tại Hà Nội
Seedlink chiêu sinh hè 2015 các lớp học múa cho trẻ em tại Hà Nội
Với tư cách là “nghệ thuật của việc đặt kế hoạch và định hướng hoạt động”, việc sử dụng công cụ chiến lược luôn mang tính chủ quan, tùy thuộc vào cách thức sử dụng của chủ thể lãnh đạo, trong đó có việc xác định tầm vóc của chiến lược. Có thể quan niệm rằng, chiến lược (phát triển đất nước) là hệ thống tư tưởng, quan điểm chủ đạo và chỉ đạo về phát triển đất nước cho một thời kỳ nhất định. Chính vì vậy, trong chiến lược phát triển đất nước thời kỳ đến năm 2020, cần phải thể hiện rõ hệ thống tư tưởng, quan điểm chủ đạo và chỉ đạo phát triển đất nước Việt Nam một cách thích hợp, khả thi với giai đoạn 10 năm này.
Một góc Thủ đô Hà Nội |
Chủ đề tư tưởng của Chiến lược
Chiến lược phát triển đất nước hàm chứa trong đó một tầm nhìn, một triết lý phát triển của cả một dân tộc và hướng vào một mục tiêu mang tính bao quát của thời kỳ chiến lược. Vì vậy, việc xác định chủ đề tư tưởng của chiến lược có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Để xác định chủ đề tư tưởng của chiến lược, cần hình dung rõ ràng về bối cảnh, những vấn đề đang đặt ra, khát vọng vươn tới, những giải pháp chủ yếu và không loại trừ cả những dự cảm về mức độ thành công của một chiến lược qua chủ đề tư tưởng của chiến lược.
Chủ đề tư tưởng của chiến lược thường có đặc điểm là: Thể hiện ngắn gọn, cô đọng vấn đề cuộc sống đặt ra trong thời kỳ chiến lược; nêu rõ hướng hành động mang tính chủ đạo của thời kỳ chiến lược; có tính hiệu triệu, tập hợp lực lượng cao.
Có nhiều cách tiếp cận để xác định chủ đề tư tưởng của chiến lược nhưng về cơ bản có thể phân loại thành hai cách tiếp cận chính: Một là, tiếp cận theo mục tiêu, lấy mục tiêu của chiến lược để xác định chủ đề tư tưởng. Hai là, tiếp cận theo giải pháp, lấy giải pháp chủ yếu nào đó (mang ý nghĩa quyết định nhất) của chiến lược để xác định chủ đề tư tưởng.
Chẳng hạn, theo cách tiếp cận từ mục tiêu, có thể xác định chủ đề tư tưởng của chiến lược như sau: (i) Đến năm cuối của thời kỳ chiến lược, đạt mức tương đương như một nước nào đó hiện có trình độ phát triển cao hơn; (ii) xây dựng Việt Nam thành một nước công nghiệp hiện đại (vào năm…); (iii) đưa Việt Nam vào nhóm có mức thu nhập trung bình cao của thế giới (vào năm…); …
Theo cách tiếp cận từ giải pháp, các chủ đề tư tưởng của chiến lược có thể là: (i) đột phá và phát triển bền vững; (ii) gia tăng giá trị quốc gia và hội nhập quốc tế; …
Ngoài ra, có thể còn có những cách tiếp cận khác, theo kiểu đặt ra nhiệm vụ lớn phải vượt qua, như vượt qua khủng hoảng, vượt qua tình trạng nước nghèo... Cũng có thể chủ đề tư tưởng chỉ là một tên gọi rất ngắn gọn, nhưng có sức biểu cảm lớn. Người dân miền Tây Trung Quốc chắc sẽ rất phấn chấn khi nghe nói về một “Chiến lược khai phát miền Tây” của họ. Cũng như vậy, “chiến lược chấn hưng công nghiệp vùng Đông Bắc” hoặc “Chiến lược trỗi dậy miền Trung” (của Trung Quốc) sẽ gợi cho những người dân nơi đây những cảm nghĩ phát triển rõ ràng và với mục tiêu cụ thể. Chiến lược biển của Canada có chủ đề: “Biển của chúng ta, tương lai của chúng ta”, gợi ra cả sự gần gũi lẫn niềm tin và trách nhiệm của mỗi người dân với biển cả. Trung Quốc đang triển khai “Chiến lược phát triển hài hòa”, các chiến lược gia của Mỹ đề xuất chiến lược “cưỡi lên đầu sóng” khi tiến vào thế kỷ XXI…
Mỗi cách tiếp cận xác định chủ đề tư tưởng của chiến lược nêu trên đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định. Việc lựa chọn chủ đề tư tưởng của chiến lược, vì thế, không thể quá cầu toàn. Ranh giới hợp lý nằm ở tương quan giữa tính khoa học của tư duy và yêu cầu về nghệ thuật lãnh đạo, quản lý.
Tư tưởng chủ đạo của việc xây dựng Chiến lược
Thời kỳ chiến lược đến năm 2020 là thời kỳ Việt Nam có cơ hội thoát ra khỏi tình trạng nước nghèo để gia nhập nhóm những nền kinh tế có mức thu nhập trung bình, để từ đó, từng bước tiếp tục vươn lên cao hơn nữa. Để đạt mục tiêu này, cần đảm bảo được những cơ sở vững chắc cho sự phát triển nhanh liên tục. Vì vậy, cần đặc biệt lưu ý những nội dung mang tính tư tưởng chỉ đạo.
Thứ nhất, coi trọng chất lượng phát triển
Nhu cầu bức bách nhất của sự phát triển xuất phát từ tình trạng nghèo nàn, lạc hậu. Để thoát khỏi cảnh nghèo và tình trạng lạc hậu, tiền đề đầu tiên là phải có tăng trưởng kinh tế dương. Nói cách khác, quy mô kinh tế ngày càng lớn (và lớn lên với tốc độ nhanh hơn quy mô tăng lên về dân số) là cơ sở của sự cải thiện cuộc sống, là điều kiện để thoát khỏi cảnh nghèo. Tuy nhiên, đối với toàn bộ xã hội, sự gia tăng về quy mô của cả nền kinh tế không đồng nghĩa với việc tất cả mọi người đều được cải thiện cuộc sống, mọi người nghèo đều trở nên hết nghèo, mọi sự lạc hậu đều tự nhiên biến mất. Sự phát triển, vì thế, không chỉ dừng lại ở sự gia tăng quy mô kinh tế đơn thuần về lượng, mà còn thể hiện ở sự thay đổi của phương thức tăng trưởng, ở cách sống và lối sống, và ở phương thức phân phối các kết quả tăng trưởng như thế nào. ở nghĩa tổng quát, sự phát triển là sự tham gia của mọi người dân vào quá trình phát triển cũng như sẻ chia thành quả của phát triển.
Như vậy, một mặt, không thể có phát triển mà không có tăng trưởng kinh tế. Nhưng mặt khác, chỉ có tăng trưởng kinh tế không thôi thì không hẳn đã có phát triển. Hơn nữa, chính những nhân tố “ngoài kinh tế” của sự phát triển, đến lượt mình, lại trở thành những điều kiện không thể thiếu để duy trì sự tăng trưởng cao và liên tục trong thời gian dài.
Thực tế cho thấy, có những nền kinh tế đạt được sự khởi đầu khá ấn tượng (tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, sự gia tăng của sản xuất công nghiệp cao, đời sống của dân cư được cải thiện rõ rệt, xã hội và chính trị ổn định...), nhưng thời gian duy trì lại không được bao lâu. Sau một thời gian ngắn, nền kinh tế tỏ ra “hụt hơi”, “mất đà”, tốc độ tăng trưởng chậm dần, thậm chí chuyển sang suy thoái. Đó là tình trạng phát triển không hiệu quả và không bền vững. Một trong những điểm cốt lõi của tình huống này là nền kinh tế đã tăng trưởng không phải dựa trên tăng năng suất. Nhận thức về sự phát triển, vì vậy, đã ngày càng đề cao tính bền vững. Sự bền vững của các quá trình phát triển ngày nay cũng được hiểu ở các khía cạnh cụ thể là: Bền vững về kinh tế, bền vững về môi trường, bền vững về xã hội.
Thứ hai, lấy con người làm trung tâm
Con người vừa là mục tiêu, vừa là phương tiện, vừa là nguồn lực, vừa là động lực phát triển. Vì vậy, sự phát triển toàn diện của con người phải trở thành trung tâm của chiến lược phát triển quốc gia. Trong điều kiện xã hội còn nghèo và lạc hậu, một chiến lược lấy con người làm trung tâm không thể không hướng sự tập trung vào việc thanh toán tình trạng nghèo đói, lạc hậu và thiếu thông tin. Tình trạng đói nghèo được giảm thiểu và những người vì bất kỳ lý do gì mà tạm thời bị cảnh ngộ đói nghèo sẽ không bị xã hội bỏ rơi chính là biểu hiện sự công bằng xã hội hay sự phát triển bền vững về mặt xã hội. Nhà kinh tế học cổ điển vĩ đại Adam Smith đã từng nói: “Không có xã hội nào có thể chắc chắn hưng thịnh và có hạnh phúc khi phần lớn người dân phải sống trong cảnh nghèo đói và khổ cực”.
Trên thực tế, quan điểm toàn diện về phát triển đã được thừa nhận rộng rãi trên toàn thế giới với dấu mốc lịch sử vô cùng quan trọng được ghi trong Tuyên ngôn Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc.
Hội nghị thượng đỉnh Thiên niên kỷ họp tại Trụ sở Liên hợp quốc ở New York năm 2000 với sự có mặt của 149 nguyên thủ quốc gia và những người đứng đầu chính phủ của 180 nước, đã thông qua bản Tuyên ngôn Thiên niên kỷ, “như những nền tảng thiết yếu cho một thế giới hoà bình, thịnh vượng và công bằng hơn”, trên cơ sở cân nhắc tới “các giá trị nền tảng chắc chắn, để trở thành yếu tố cần thiết đối với các mối quan hệ quốc tế trong thế kỷ XXI”. Bản Tuyên bố cũng thể hiện “quyết tâm tạo lập một môi trường – trên phạm vi quốc gia cũng như toàn cầu – có lợi cho sự phát triển và thanh toán nạn nghèo khổ”.
Xin nhắc lại lần nữa là, giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững có mối quan hệ hết sức chặt chẽ. Trong quan hệ này, vì tăng trưởng dẫn đến tăng thu nhập và sản phẩm theo đầu người, nên không thể có phát triển mà thiếu tăng trưởng. Tuy vậy, làm tăng thu nhập không phải là mục đích duy nhất của phát triển. Con người mong có một cuộc sống lành mạnh trở thành người có văn hoá hơn, trong một môi trường xã hội an ninh hơn và trong một môi trường tự nhiên hài hoà, trong lành hơn. Tư tưởng này đặc biệt được phổ cập kể từ thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX đến nay. Có thể coi đây là cách tiếp cận mới về tư duy phát triển cho thế kỷ XXI – cách tiếp cận của quan điểm toàn diện, bao gồm cả các khía cạnh kinh tế, xã hội, văn hoá, chính trị, quyền con người và môi trường thiên nhiên.
Mục tiêu vì con người là sự mở rộng cơ hội lựa chọn cho các thế hệ, là quá trình gia tăng phúc lợi cho các thế hệ con người bằng cách gia tăng tài sản, bao gồm tài sản vật chất, tài sản tài chính, tài sản con người, tài sản môi trường (nước sạch, không khí sạch, bãi cá, rừng cây, đất đai...) và tài sản xã hội (sự tin cậy lẫn nhau, khả năng liên kết, sự đảm bảo an ninh cho người và tài sản...).
Thứ ba, đổi mới, mở cửa và hợp tác quốc tế
Đổi mới, mở cửa và hợp tác quốc tế chính là những nhân tố mang tính biện pháp và có tính quyết định đưa nước ta “vượt qua giai đoạn khủng hoảng” vừa qua. Giai đoạn vượt qua tình trạng nước nghèo để tiến tới nước “có mức thu nhập trung bình” của thời kỳ chiến lược 2011-2020 cũng sẽ phụ thuộc rất nhiều vào tiến trình tiếp tục đổi mới, mở cửa và hợp tác quốc tế. Rất nhiều vấn đề của phát triển ngày nay là những vấn đề mang tính toàn cầu, như môi trường, khí hậu, dịch bệnh, an ninh lương thực, năng lượng, nguồn nước, mạng sản xuất và phân phối, v.v… đòi hỏi phải có sự hợp tác ngày càng chặt chẽ, sâu rộng giữa các quốc gia, các tổ chức quốc tế.
Khác với các giai đoạn trước, hiện nay Việt Nam đã là thành viên chính thức, đầy đủ của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) cũng như là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế như APEC, ASEAN, Tiểu vùng sông Mêkông... Việt Nam đang ở một quỹ đạo vận động mới, hoàn toàn khác với mọi thời điểm trong quá khứ. Nền kinh tế Việt Nam đã có cơ hội và thể chế để trở thành một bộ phận hợp thành hữu cơ của kinh tế thị trường toàn cầu, có sự tùy thuộc lẫn nhau sâu sắc, chịu sự chi phối của nhiều điều luật chung, vận hành theo những quy tắc, quy chuẩn, tập quán chung.
Những nhiệm vụ trọng tâm của Chiến lược
Thời kỳ chiến lược 2011-2020, nền kinh tế Việt Nam có 3 đặc điểm cơ bản cần đặc biệt lưu ý: Nền kinh tế đang đứng trước nhiều khó khăn gay gắt, vẫn còn đang trong tình trạng kém phát triển, vẫn thuộc nhóm nước nghèo của thế giới; nền kinh tế đang hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới; nền kinh tế đang đổi mới cơ chế, chuyển sang “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Sự kết hợp của các đặc điểm cơ bản này đã tạo ra nét đặc thù của thời kỳ chiến lược 2011-2020 ở Việt Nam, trong đó giữ vị trí chi phối tiến trình chung là quá trình đổi mới thể chế kinh tế. Chất lượng phát triển và hiệu quả hội nhập được tiến hành thông qua và nhờ vào đổi mới thể chế kinh tế. Đồng thời, kết quả của đổi mới thể chế kinh tế lại được đo bằng chất lượng phát triển và hiệu quả hội nhập của nền kinh tế. Vì vậy, thời kỳ chiến lược 2011-2020 phải giải quyết cùng lúc nhiều nhiệm vụ quan trọng, trong đó nổi lên những nhiệm vụ trọng tâm chủ yếu sau:
Một là, thị trường hóa, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Chuyển sang nền kinh tế thị trường có nghĩa là phải tạo ra các quan hệ thị trường, tuân thủ các nguyên tắc thị trường, trên cơ sở đó mới xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường. Tính bền vững của sự phát triển vừa đòi hỏi phải được thể hiện ở khía cạnh bền vững về thể chế, lại vừa đòi hỏi thể chế tạo lập cơ sở cho sự phát triển được bền vững. Thể chế, trong đó vai trò trung tâm là Nhà nước, phải tạo ra một môi trường chung ổn định, an ninh về chính trị - xã hội; thân thiện và hỗ trợ đối với thị trường, kinh doanh; đề cao những giá trị xã hội, sự công bằng, nền dân chủ, ý thức chân thành tín nghĩa. Vì thế, việc xây dựng thể chế có ý nghĩa nền tảng quan trọng hàng đầu của chiến lược phát triển của Việt Nam thời kỳ 2011 - 2020.
Để xây dựng thể chế với vai trò tạo lập nền tảng của phát triển bền vững, cần hoàn chỉnh đồng bộ hệ thống pháp luật, đảm bảo sự vận hành của nền kinh tế thị trường được dựa trên nền tảng pháp luật vững chắc, phù hợp với thông lệ quốc tế; thực thi pháp luật nghiêm túc, đảm bảo tinh thần thượng tôn pháp luật; đảm bảo đời sống xã hội dân chủ, các thông tin quản lý kinh tế - xã hội được công khai, minh bạch, dễ tiếp cận. Xây dựng nền hành chính gọn nhẹ, hiệu quả, tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư và kinh doanh của doanh nghiệp thuộc mọi hình thức sở hữu. Kết hợp việc hoàn thiện cơ cấu tổ chức quản lý Nhà nước với nâng cao chất lượng cán bộ công chức. Thực hiện phân cấp quản lý một cách hiệu quả.
Hai là, đào tạo nguồn nhân lực có phẩm chất tốt, kỹ năng chuyên môn cao
Việc phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh thế giới đang chuyển sang nền kinh tế tri thức đòi hỏi nguồn nhân lực có phẩm cấp tương ứng. Vì vậy, tập trung sức phát triển nguồn nhân lực có phẩm chất tốt và kỹ năng nghề nghiệp đạt trình độ cao phải được xem là mũi đột phá hàng đầu. Thời kỳ chiến lược 2011-2020 cũng là thời kỳ “dân số vàng” ở Việt Nam. Sự xuất hiện của yếu tố “dân số vàng” nếu nâng cao được chất lượng và hiệu quả của đào tạo, thì nguồn nhân lực sẽ trở thành một yếu tố quan trọng hàng đầu để thu hút đầu tư và là một lợi thế cạnh tranh lớn của nền kinh tế. Ngược lại, nếu chất lượng nguồn nhân lực không được cải thiện, sức ép về việc làm lại trở thành một gánh nặng, chứa đựng nhiều nguy cơ bất ổn. Đồng thời, đặc biệt chú ý chính sách trọng dụng nhân tài, theo đúng phương châm “hiền tài là nguyên khí quốc gia”.
Ba là, xây dựng nền tảng kết cấu hạ tầng đồng bộ và hiện đại
Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ và hiện đại phải đi trước một bước thích hợp để tạo ra tiền đề vật chất cho quá trình phát triển nhanh và có hiệu quả. Đây là yếu tố vật chất mang tính chiến lược dài hạn, nhưng đang là khâu yếu, rất cần sự đột phá với quyết tâm cao. Để đảm bảo nguồn vốn cho việc xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng hiện đại, cần đa dạng hóa các nguồn vốn, các hình thức đầu tư, trên cơ sở một chiến lược phát triển kết cấu hạ tầng có tầm nhìn xa và nhất quán, với hệ thống các danh mục dự án xây dựng kết cấu hạ tầng được quy hoạch rõ ràng, công khai. Giai đoạn đến 2020, tập trung ưu tiên xây dựng một số công trình giao thông lớn, các đầu mối giao lưu quốc tế (sân bay, thương cảng, đường cao tốc, đường sắt), các khu đô thị hiện đại, các công trình cung cấp điện, nước... Việc giải quyết những yếu kém về kết cấu hạ tầng sẽ tạo ra bước phát triển vượt bậc của các loại hàng hóa, phát triển nông nghiệp, nông thôn, giảm chi phí sản xuất, chi phí gia nhập thị trường, giảm nhanh đói nghèo ở các vùng sâu, vùng xa và vùng cao.
Bốn là, xác định mô hình công nghiệp hóa và mô hình phát triển xã hội Việt Nam
Việc lựa chọn mô hình phát triển để định hướng cho toàn xã hội Việt Nam hành động trong những năm tới có ý nghĩa quan trọng. Mô hình phát triển chung là mô hình kết hợp được những tinh hoa của thế giới với yêu cầu đặc thù của người Việt Nam; mô hình xã hội tiến bộ, kết hợp tăng trưởng kinh tế nhanh và môi trường sinh thái được giữ vững. Chắc chắn là, về nhiều chỉ tiêu kinh tế chưa đạt trình độ cao như các nước công nghiệp phát triển, nhưng đảm bảo cho người dân có chất lượng cuộc sống tốt và an toàn, xã hội công bằng, dân chủ và đồng thuận.
Phải đảm bảo sự ổn định chính trị, an ninh và an toàn cho cuộc sống, làm cơ sở cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Việt Nam cũng cần phải xây dựng nền kinh tế năng động và có hiệu quả cao trên cơ sở hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và có một cơ cấu kinh tế hiện đại. Kinh tế trong nước hay kinh tế ngoài nước; kinh tế Nhà nước hay kinh tế ngoài Nhà nước; xí nghiệp quy mô lớn hay quy mô nhỏ hay quy mô vừa, đều cùng phát triển có hiệu quả và tuân thủ pháp luật. Nền kinh tế Việt Nam phải hướng đến sản xuất hàng hoá đa dạng, chất lượng cao, tăng nhanh năng lực cạnh tranh và tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu để làm phương tiện cơ bản đảm bảo tăng trưởng kinh tế cao.
Bên cạnh đó, chúng ta cần xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, đồng thuận và gắn kết (phúc lợi, công bằng, cơ hội để người dân học tập, tham gia các hoạt động của đời sống kinh tế, xã hội một cách thực sự và có hiệu quả; có sự đồng thuận cao giữa các tầng lớp dân cư, giữa các dân tộc, giữa thành thị với nông thôn...). Thực hiện tốt chương trình giảm nghèo bền vững, thực hiện công bằng để phát huy tối đa sức mạnh của mỗi công dân; dân chủ để phát huy sáng tạo cùng với giải phóng năng lực của mỗi người dân, tạo cơ hội cho mỗi người làm việc sáng tạo, có kết quả và gắn kết xã hội, tạo ổn định để phát triển.
Đảm bảo duy trì bền vững môi trường sinh thái phải luôn đồng hành cùng với phát triển kinh tế và xã hội, cả trước mắt cũng như lâu dài. Cùng với đó, tiếp tục đẩy mạnh mở cửa mạnh mẽ và hội nhập sâu rộng, thu hút sự hợp tác của các tập đoàn kinh tế, các quốc gia và các tổ chức quốc tế.
Năm là, mở cửa và hợp tác quốc tế
Quá trình tái thị trường hóa toàn cầu đã tạo ra cơ sở mới cho sự hội nhập của các nền kinh tế quốc gia và đặt các nền kinh tế quốc gia vào thế cạnh tranh gay gắt về thể chế để giành giật các nguồn lực và các cơ hội cho phát triển. Mở cửa giờ đây không còn chỉ được hiểu là một lĩnh vực hoạt động kinh tế (đối ngoại), mà quan trọng hơn, là một triết lý phát triển của thời đại toàn cầu hóa: mở cửa từ bên trong, hợp tác với quốc tế để phát triển ngay từ trong nước. Muốn vậy, phải chủ động, tích cực, phải có lực lượng và có tổ chức; phải tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu (cả ở khâu sản xuất lẫn khâu phân phối). Đồng thời, phải xây dựng được những quan hệ đối tác chiến lược.
Thời kỳ chiến lược 2011 – 2020 sẽ là một thời kỳ có ý nghĩa rất đặc biệt trong lịch sử phát triển kinh tế Việt Nam. Việc nghiên cứu xây dựng một chiến lược phát triển đáp ứng yêu cầu của thực tiễn là bước khởi đầu quan trọng. Hy vọng là, những suy nghĩ ban đầu nêu trên sẽ góp phần thảo luận để xây dựng chiến lược phát triển đất nước trong thời kỳ tới./.
(Nhóm Nghiên cứu Chiến lược - Tạp chí kinh tế và dự báo)
Chuyển nhượng, cho thuê hoặc hợp tác phát triển nội dung trên các tên miền:
Quý vị quan tâm xin liên hệ: tieulong@6vnn.com