Tin kinh tế, tài chính, đầu tư, chứng khoán,tiêu dùng

ASEAN được và mất gì khi gia nhập FTA với Trung Quốc?

Trong bối cảnh cuộc đàm phán Doha của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) dần bị chìm vào quên lãng, các nền kinh tế phát triển trên thế giới có xu hướng thiết lập thỏa thuận thương mại với các đối tác nhỏ hơn. Trung Quốc được xem là một trong những nước tích cực nhất khi tham gia trò chơi này, đặc biệt khi Khu vực Tự do Thương mại ASEAN – Trung Quốc (CAFTA) bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày 1/1/2010.

Là khu vực mậu dịch tự do lớn nhất thế giới, CAFTA đã trở thành ngôi nhà chung cho 1,9 tỷ người tiêu dùng với tổng sản phẩm quốc dân của tất cả các nước cộng lại lên tới 5,9 nghìn tỷ USD và kim ngạch thương mại đạt 1,3 nghìn tỷ USD. Theo thỏa thuận, Trung Quốc, Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan và Singapore sẽ áp mức thuế suất bằng không đối với hơn 7.000 nhóm hàng hóa. Tới năm 2015, các thành viên mới của ASEAN là Việt Nam, Lào, Cambodia và Myanmar mới chính thức tuân thủ quy định này.

FTA song phương ASEAN - Trung Quốc đi vào hoạt động trong bối cảnh quan hệ thương mại Trung Quốc - ASEAN đã tăng mạnh trong thập kỷ qua. Kim ngạch thương mại giữa Trung Quốc và ASEAN đã đạt tới 231,1 tỷ USD trong năm 2008, so với mức 19,5 tỷ USD của năm 1995.

Đặc biệt trong 4 năm qua, hoạt động thương mại đã tăng gấp đôi với việc ký kết các thỏa thuận về trao đổi hàng hóa, dịch vụ và một hiệp ước về khuyến khích đầu tư liên khu vực. Trung Quốc cũng đã chiếm chỗ của Mỹ để trở thành đối tác thương mại lớn thứ 3 của ASEAN và tiến tới sẽ vượt Nhật và EU để trở thành đối tác số 1 của khu vực này trong vòng vài năm đầu của FTA.

ASEAN và Trung Quốc hy vọng FTA song phương sẽ mở rộng tầm với thương mại của châu Á trong khi tăng cường giao dịch trong khu vực; giúp hai bên bớt phụ thuộc vào thị trường bên ngoài. Báo giới Trung Quốc đều ca ngợi thỏa thuận tự do thương mại này sẽ mang lại lợi ích chung cho cả Trung Quốc và ASEAN. Tại thời điểm ký hiệp định vào năm 2002, Tổng thống Philippines Gloria Arroyo cho rằng, CAFTA sẽ trở thành một tổ chức khu vực có thể đối trọng với Mỹ và Liên minh châu Âu.

Tuy nhiên, điều này không hẳn như vậy. CAFTA dường như mang lại lợi ích cho Trung Quốc nhiều hơn là ASEAN.

Đầu tư vào ASEAN  giảm mạnh

Nhu cầu tăng đến chóng mặt nhằm đáp ứng sự tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đã từng được xem là yếu tố chủ chốt cho sự phát triển của ASEAN trong khoảng thời gian năm 2003, sau khi tăng trưởng của khối chậm lại do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997-1998.

Báo cáo của Liên hợp quốc cho rằng, trong năm 2003 và đầu năm 2004, Trung Quốc là một động cơ tăng trưởng chính của hầu hết các nền kinh tế trong khu vực châu Á. Nhập khẩu của nước này tăng mạnh, thậm chí vượt xuất khẩu, trong đó nguồn cung hàng hóa chủ yếu từ châu lục này. Tuy nhiên, khi Trung Quốc tăng trưởng mạnh mẽ, thì cũng là lúc ASEAN gặp nhiều bất lợi. Các nhà sản xuất trong và ngoài nước lần lượt rút hoạt động khỏi ASEAN và chuyển về Trung Quốc do nguồn lao động ở đây rẻ hơn nhiều so với các nước trong khu vực. Điều này có thể nhận thấy như khi Trung Quốc giảm giá đồng Nhân dân tệ (NDT) vào năm 1994 cũng gây ra làn sóng rút đầu tư khỏi ASEAN. Xu hướng này đã diễn ra khá mạnh kể từ sau cuộc khủng hoảng 1997. Năm 2000, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ASEAN chỉ còn chiếm 10% trong tổng đầu tư vào các nước châu Á, giảm mạnh so với 30% vào giữa những năm 1990.

Hàng lậu, vấn đề đau đầu không của riêng ai


Từ nhiều năm nay, tình trạng hàng lậu Trung Quốc xuất hiện tràn lan đã ảnh hưởng đến các nền kinh tế ASEAN. Việt Nam là một ví dụ. Khoảng 70-80% cửa hàng giày dép ở đây bán hàng lậu từ Trung Quốc, gây thiệt hại nặng nề cho ngành sản xuất giày dép trong nước.

Đối với trường hợp của Philippines, báo cáo gần đây của tổ chức Liên minh Tự do Thương mại cho rằng, ngành sản xuất giày dép của nước này cũng chịu tác động lớn do hàng lậu Trung Quốc. Hàng lậu không chỉ dừng lại ở mặt hàng giày dép mà còn lan rộng ra hầu hết các mặt hàng khác trong đời sống như thép, giấy, xi măng, nhựa… Nhiều công ty của Philippines đã  phải đóng cửa hoặc giảm sản xuất và nhân công do tình trạng hàng lậu.

Nhiều nhà kinh tế lo ngại rằng, CAFTA có thể hợp pháp hóa số hàng lậu này và khiến cho ngành công nghiệp của ASEAN trở nên tệ hại hơn.

Trong lĩnh vực nông nghiệp

Tỉnh Benquet vẫn được xem là khu vực sản xuất rau và hoa quả chính của Philippines cũng đang khốn đốn vì tình trạng tràn lan của hàng hóa Trung Quốc. Thống đốc tỉnh này cho rằng, CAFTA đã gây sốc với nhiều nông dân ở đây, bởi vì hầu hết người dân không biết rằng chính phủ Philippines đã ký thỏa thuận gia nhập CAFTA từ năm 2002. Khi chưa có thỏa thuận tự do thương mại, Philippines đã thâm hụt thương mại 370 triệu USD với Trung Quốc. Dự kiến con số này không chỉ dừng lại ở đây sau khi CAFTA có hiệu lực.

Tình trạng tương tự cũng diễn ra tại Thái Lan, nơi mà tác động của Chương trình “thu hoạch sớm” Thái Lan-Trung Quốc, một phần trong CAFTA, đã quá rõ ràng. Theo thỏa thuận, Thái Lan và Trung Quốc nhất trí lập tức xóa bỏ hàng rào thuế quan đối với trên 200 nhóm hàng hóa rau quả. Thái Lan sẽ xuất khẩu hoa quả nhiệt đới sang Trung Quốc, trong khi hoa quả ôn đới của Trung Quốc sẽ vào Thái Lan với thuế suất bằng 0. Tuy nhiên, hy vọng về thỏa thuận sẽ mang lại lợi ích chung cho hai nước đã nhanh chóng chấm dứt sau đó vài tháng. Còn Thái Lan gần như trắng tay với thỏa thuận này.

Chương trình “thu hoạch sớm” đã xóa sổ toàn bộ các nhà sản xuất tỏi và hành ở khu vực phía bắc Thái Lan, đồng thời làm tê liệt các dự án bán hoa quả của nước này. Báo chí Thái Lan đã chỉ trích Trung Quốc là không chịu giảm cắt giảm thuế như trong thỏa thuận song phương trong khi chính phủ Thái Lan thực hiện quá nghiêm túc việc này.
Bài học từ chương trình “thu hoạch sớm” của Thái lan đã tạo ra tâm lý lo sợ không chỉ ở Thái Lan mà còn trong khu vực Đông Nam Á.

Cạnh tranh gay gắt hơn

Các chuyên gia cho rằng, FTA giữa ASEAN và Trung Quốc sẽ khiến một số ngành công nghiệp của Đông Nam Á chịu sự cạnh tranh lớn từ Trung Quốc. Một số nhà sản xuất lo ngại hàng hóa giá rẻ của Trung Quốc có thể ngập tràn thị trường nước mình một khi thuế nhập khẩu được dỡ bỏ. Điều này sẽ gây khó khăn hơn cho chính quyền địa phương trong việc duy trì hoặc tăng cường thị phần của mình.

Tại Indonesia, ngành công nghiệp dệt may và thép tỏ ra đặc biệt lo ngại về việc dỡ bỏ thuế quan, khiến chính phủ nước này từng nêu vấn đề có thể sẽ đề nghị hoãn áp dụng miễn thuế đối với một số sản phẩm.

Quan điểm của Trung Quốc

Về phía Trung Quốc, các quan chức nước này đều nhận thấy lợi ích mà CAFTA mang lại. Theo nhà kinh tế học người Trung Quốc Angang Hu, mục tiêu chiến lược của Trung Quốc này đó là đưa nền kinh tế nước này hội nhập hơn nữa với kinh tế toàn cầu với tư cách là “trung tâm công nghiệp sản xuất của thế giới”. Một phần của kế hoạch là mở cửa thị trường ASEAN cho các sản phẩm hàng hóa của Trung Quốc. Trung Quốc vẫn xem Đông Nam Á, nơi tiêu thụ khoảng 8% hàng xuất khẩu của Trung Quốc, là một thị trường quan trọng với nhiều tiềm năng. Kế hoạch này được xem là rất quan trọng do tư tưởng bảo hộ tại các nước EU và Mỹ đang ngày càng lớn.

Ông Hu cho rằng, chiến lược thương mại của Trung Quốc được thực hiện theo mô hình “mở cửa một nửa”. Tức là mở toang cửa hay chỉ tự do thương mại đối với hàng xuất khẩu, nhưng lại bảo hộ đối với hàng nhập khẩu.

Tóm lại, ASEAN được lợi gì trong cuộc chơi này vẫn là điều chưa thể khẳng định. Chắc chắn, ASEAN không thể cạnh tranh với ngành sản xuất sử dụng nhiều lao động của Trung Quốc và càng không có lợi thế đối với các sản phẩm công nghệ cao.

(Trang tin VN&QT)

  • Ngành du lịch Thái Lan ứng phó với biểu tình
  • Trung Quốc tiếp tục đẩy mạnh tiêu dùng trong nướ
  • Nhật khuyến khích ngân hàng cho vay mạnh hơn
  • Trung Quốc muốn Mỹ "hạ nhiệt" vấn đề Nhân dân tệ
  • Thái Lan: Chiêu thức nào sau tưới máu?
  • Thủ tướng Thái Lan sẵn sàng giải tán Hạ viện vì lợi ích nhân dân
  • Bùng nổ dịch vụ vệ sĩ ở Trung Quốc
  • Trung Quốc cử phái viên tới Mỹ đàm phán thương mại