Tin kinh tế, tài chính, đầu tư, chứng khoán,tiêu dùng

Quan hệ Trung – Mỹ và thái độ cảnh giác của châu Á

Cấp cao Hồ Cẩm Đào - Obama vào thứ Tư này thành công sẽ mở ra khúc quanh trong quan hệ Trung - Mỹ, nếu ngược lại, có thể khơi nguồn cho một cuộc chiến tranh lạnh mới. Thành tựu hay thất bại tùy vào tầm nhìn, bản lĩnh và trách nhiệm của cả hai cường quốc đối với hòa bình và thịnh vượng của thế giới.

Cuộc gặp thượng đỉnh được chuẩn bị khá công phu và kỹ lưỡng từ cả hai phía. Ảnh: lãnh đạo Mỹ - Trung Quốc gặp nhau tại thượng đỉnh G20 tại Seoul, Hàn Quốc tháng 11.2010.Ảnh: AFP

Bên thềm cuộc đối thoại Hồ Cẩm Đào - Obama, mấy ngày qua, truyền thông quốc tế đã công khai một số thỏa thuận của cuộc gặp thượng đỉnh được chuẩn bị khá công phu và kỹ lưỡng từ cả hai phía. Hôm 15.1, ngoại trưởng Hillary Clinton vừa công bố chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc. Theo bà Clinton, cuộc gặp cấp cao lần này giữa chủ tịch Hồ Cẩm Đào và tổng thống Barack Obama phải mang lại hành động thực sự trên những vấn đề cụ thể. Cả hai phải chuyển những cam kết ở cấp thượng đỉnh đi vào hành động.

Cộng sinh hay chiến tranh lạnh mới?

Chuyến thăm của chủ tịch Hồ Cẩm Đào sang Mỹ diễn ra khi các mâu thuẫn nội tại của quan hệ Trung-Mỹ ngày càng tích tụ và các quan ngại ở châu Á càng gia tăng trước những triển khai địa-chính trị mạnh bạo/rộng khắp của Trung Quốc. Hai năm qua, các tranh cãi trong mỗi nước ngày càng gay gắt; bên này đổ lỗi cho bên kia về các chính sách kinh tế, ngoại giao và quốc phòng đi ngược lại những chuẩn mực quốc tế. Dị biệt giữa hai nước về nhân quyền càng trầm trọng với giải Nobel Hoà bình được trao cho một nhà bất đồng chính kiến Trung Quốc cuối 2010.

Chuyến công du của ông Hồ Cẩm Đào được các nhà quan sát cho là chuyến thăm cấp nhà nước quan trọng nhất của quan hệ Trung-Mỹ trong 3 thập kỷ nay. Nhưng có ý kiến không tán thành nhận định này, khi luận rằng cả ông Hồ Cẩm Đào lẫn ông Obama đang lo củng cố cái ghế để chuyển giao quyền lực. Họ cũng không phải là cặp bài trùng như Mao Trạch Đông/Nixon hay Chu Ân Lai/Kissinger thuở nào. Tính cách và hoàn cảnh của hai vị nguyên thủ này khó có thể tạo nên bước đột phá như thập kỷ 70, cho dù tình thế hiện nay đang thực sự cần một bước ngoặt như vậy.

Theo mạng dự báo chiến lược (Stratfor), sự kiện địa-chính trị nổi bật nhất của thập kỷ qua chính là sự trỗi dậy của Trung Quốc. Theo công ty tư vấn/nghiên cứu rủi ro chính trị toàn cầu (Canada), phần lớn các nguy cơ đe dọa ổn định thế giới trong thời gian tới đều liên quan đến bang giao Trung-Mỹ. Dư luận Nga cũng cho rằng, nay là lúc Mỹ phải có chính sách thứ hai về Trung Quốc, bởi chính sách thứ nhất đã không mấy thành công. Hiện nay, cả Mỹ và Trung Quốc đều đang lâm vào tình thế giống như của Mỹ và Liên Xô vào những năm 1970.

Hệ quả tồi tệ nhất cho châu Á và cho quan hệ Mỹ-Trung nếu xu hướng cộng sinh bị thất bại. Những cám dỗ đeo đuổi xu hướng đối đầu Trung-Mỹ có thể gây ra không khí chiến tranh lạnh khi mỗi nước phải đối mặt với khó khăn nội bộ. Mỹ chịu áp lực của công cuộc “tái cấu trúc toàn diện” do cái giá của cuộc chiến tranh lạnh cũ và do sao nhãng suốt 20 năm qua đối với các vấn đề nội trị. Trung Quốc đang chật vật để quản lý một nền kinh tế quá nóng trong một hệ thống chính trị mà chính lãnh đạo cấp cao của nước này cũng thấy là cần phải cải cách.

Châu Á “xem giỏ bỏ thóc”

Những căng thẳng bất ngờ trên bán đảo Triều Tiên nhiều khi bị đẩy tới nguy cơ vượt tầm kiểm soát, các tranh chấp trên biển Đông Hải, Hoàng Hải, Nam Hải và những động thái tăng cường các tuyến liên minh cũ, tạo dựng đồng minh mới, đối tác mới ở châu Á - Thái Bình Dươngkhiến nhiều người nghĩ đến sự trở lại của chiến tranh lạnh với trật tự hai cực Mỹ-Trung ở Đông Bắc Á. Tiến trình này được phóng đại thêm bởi cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu.

Công bằng mà nói, trước khi bùng nổ cuộc suy thoái, giữa Trung Quốc và Mỹ đã hình thành nên các quan hệ đối ứng đặc biệt: Trung Quốc sản xuất, Mỹ tiêu thụ, Trung Quốc xuất khẩu, Mỹ nhập khẩu, Trung Quốc là chủ nợ, Mỹ là con nợ. Trải qua khủng hoảng, Trung Quốc trở thành đối thủ của Mỹ nhưng không phải là kẻ thù như thời chiến tranh lạnh cũ. Tuy nhiên, theo quan điểm của Washington cũng như của Bắc Kinh, Trung Quốc không phải là đồng minh của Mỹ dù đang vươn lên vị trí lãnh đạo thế giới và được gợi ý cùng Mỹ tạo thành nhóm G2.

Các nhà phân tích cho rằng có một “mô hình” trong quan hệ Mỹ-Trung mà các đời tổng thống Mỹ phải đối mặt. Giai đoạn đầu là nỗ lực tạo dựng bầu không khí thân thiện. Giai đoạn hai có những va chạm xuất hiện, khiến quan hệ song phương căng thẳng. Giai đoạn ba, hai bên phải chấp nhận khác biệt và tìm cách hợp tác để bước vào giai đoạn thứ tư mang tính thực tế hơn. Trong các thập niên gần đây, quan hệ Mỹ-Trung đều diễn ra dưới “mô hình” này, kể từ thời Bill Clinton, tiếp theo là George Bush và giờ đây Barack Obama cũng không phải ngoại lệ.

Các nước châu Á cảnh giác nhưng không bị rúng động trước những mặc cả có thể có giữa hai đại cường. Một mặt, các nước muốn Mỹ "trở lại" và tiếp tục can dự tích cực vào khu vực này; mặt khác, vẫn nương theo Trung Quốc, đi nước đôi để đề phòng ảnh hưởng của Mỹ bị lu mờ do phải đổi chác hay tình thế bắt buộc. Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc, cả Indonesia và một số nước trong ASEAN đều ý thức ngày càng rõ về sự hiện diện của Mỹ như một đối trọng, nhưng vẫn thúc đẩy hợp tác với Trung Quốc trong tình thế có các can dự mới của Mỹ.

Việt Nam có vị trí địa - chính trị rất nhạy cảm đối với những mối quan hệ và can dự ấy. Đúng là sự thỏa hiệp giữa các nước lớn chưa hẳn đã diễn ra vào một thời điểm nhất định, mà là cả một quá trình. Trong quá trình này, để các nước lớn không thể mặc cả, đổi chác trên lưng mình, chúng ta phải có kế sách đối trọng và cân bằng. Vị thế của nước nhỏ trong cuộc chơi lớn là tư thế độc lập, tự cường, xây dựng quốc gia thành một thực thể chính trị-kinh tế-văn hóa có bản sắc. Đó chính là kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong hoàn cảnh mới.

TS ĐINH HOÀNG THẮNG// Theo SGTT