Thâm hụt ngân sách năm 2010 của Nhật Bản là 48%, 10 năm trước, mức thâm hụt bình quân là 39%. Nhật Bản đang đứng trước nguy cơ phải đối mặt với “siêu lạm phát”.
Số liệu thống kê thu chi quốc tế tháng 10 của Bộ tài chính Nhật Bản ngày 8 tháng 12 cho thấy, lần đầu tiên trong vòng 3 tháng, Trung Quốc tăng mức nắm giữ trái phiếu chính phủ Nhật Bản, chỉ riêng tháng 10 đã mua vào 262,5 tỷ yên. Nhiều chuyên gia phân tích cho rằng: USD và Euro đang mất giá, kinh tế Mỹ phục hồi chậm chạp, tỷ giá quy đổi từ yên Nhật sang đồng đô la ở mức cao nhất trong lịch sử, ra sức mua vào trái phiếu chính phủ Nhật Bản sẽ có lợi cho chính sách “đa nguyên hóa” ngoại tệ của Trung Quốc.
Tuy nhiên, cũng có chuyên gia cho rằng, nếu xét dài hạn, kinh tế Nhật Bản tiềm ẩn rất nhiều rủi ro, thậm chí mức độ rủi ro vượt xa cả Mỹ và châu Âu.
Tính từ tháng 10, khi Trung Quốc tăng cường nắm giữ trái phiếu chính phủ Nhật Bản, với 90% là trái phiếu ngắn hạn (1 năm), trị giá khoảng 231,9 tỷ yên. Trái phiếu trung và dài hạn (5-10 năm) khoảng 30,6 tỷ yên. Riêng trái phiếu có kỳ hạn 15 năm trở lên, Trung Quốc không mua. Điều này cho thấy, Trung Quốc kỳ vọng đồng yên Nhật sẽ tăng giá trong thời gian ngắn, nhưng giữ thái độ cẩn trọng đối với kinh tế Nhật Bản về lâu về dài.
Hiện, tổng giá trị trái phiếu chính phủ của Nhật Bản đã cao hơn tổng thu nhập ngân sách tài chính quốc gia 16 lần, tỷ lệ này của Nhật Bản không chỉ cao nhất trong số các quốc gia phát triển hiện nay, mà còn là tỷ lệ cao nhất toàn cầu trong vòng 200 năm qua, gấp 4 lần so với Hy Lạp tại thời điểm năm 2009.
Sau khi đạt mức kỷ lục vào đầu thập niên 90 thế kỷ trước, tổng mức thu nhập từ thuế của Nhật Bản đã giảm liên tục, trong khi đó, tổng mức chi tiêu của chính phủ lại tiến theo chiều ngược lại. Trong báo cáo nghiên cứu về tình trạng “siêu lạm phát”, giáo sư Peter Bernholz của Đại học Basel, Thụy Sỹ cho biết, mức độ phụ thuộc vào chứng khoán vượt quá 40% là dấu hiệu cảnh báo của “siêu lạm phát”, rõ ràng, kinh tế Nhật Bản đang phải đối mặt với nguy cơ này. Chỉ có hai cách để giảm bớt mức độ phụ thuộc vào chứng khoán, một là giảm chi tiêu tài chính, hai là tăng thu nhập tài chính.
Nhật Bản khó có thể giảm mức chi tiêu tài chính. Các khoản chi dành cho những lĩnh vực không thể tự chủ tài chính như: mua trái phiếu chính phủ, bảo hiểm xã hội và trợ cấp thu thuế,…, những khoản chi này chiếm khoảng 70%. Trong giai đoạn phục hồi kinh tế, việc cắt giảm những khoản chi tiêu này là rất khó, thậm chí còn phải tăng thêm.
Còn về thu nhập tài chính, GDP trong quý III của Nhật Bản đã vượt mức dự kiến, nguyên nhân chính là do nhu cầu trong nước tăng cao, trong khi đó, xuất khẩu vẫn tăng trưởng âm. Một số gói kích thích của chính phủ như: ưu đãi khi mua xe ô tô hay các đồ điện tử gia dụng chỉ có tác dụng kích thích nhu cầu tiêu dùng của một bộ phận người dân, và kế hoạch này không thể kéo dài. Theo phân tích, sau khi chính sách hỗ trợ mua xe hơi bảo vệ môi trường kết thúc, và chính phủ tăng thuế đối với sản xuất kinh doanh thuốc lá, thì tốc độ tăng GDP trong quý IV của Nhật Bản là – 1,7%. Từ đó có thể thấy, khả năng tăng thu nhập tài chính của chính phủ là rất thấp.
Thêm vào đó, ai cũng biết Nhật Bản là một quốc gia đang dần bị “già hóa”. Tuổi tác bình quân của người Nhật hiện nay là 44,6 tuổi, 23% dân số nước này đã hơn 65 tuổi. Nhật Bản lại thiếu trầm trọng những chính sách khuyến khích dân nhập cư, bởi vậy quốc gia này khó mà khống chế tốc độ “già hóa” dân số. Điều này kéo theo hiệu suất tiết kiệm gia đình có xu hướng giảm, riêng năm 2009, đã giảm 2,3%. Phần lớn trái phiếu chính phủ được Nhật Bản mua bằng ngân sách nhà nước, trong khi nguồn ngân sách dành cho ngân hàng, bảo hiểm và quỹ hưu trí được huy động từ tiền tiết kiệm của các hộ gia đình. Vậy nên, khi dân số đang tăng tốc “già hóa”, về lâu về dài, chính phủ Nhật Bản khó có thể tiếp tục mua trái phiếu bằng nguồn ngân sách quốc nội.
Khi tiền tiết kiệm trong dân đã dùng hết, chính phủ Nhật sẽ buộc phải huy động một khoản vốn lớn từ thị trường vốn nước ngoài, và với tình trạng tài chính như hiện nay, lãi suất vay vốn mà chính phủ Nhật phải gánh chịu sẽ rất cao. Giả sử lãi suất vay vốn là 2%, vậy thì mức lãi suất hàng năm sẽ chiếm gần 80% tổng thu nhập tài chính quốc gia và vượt qua 6% GDP của nước này. Mặc dù yên Nhật đang tiếp tục tăng giá, nhưng mức thâm hụt do vi phạm hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng (CDS) của chính phủ Nhật Bản ngày càng lớn, điều đó chứng tỏ lòng tin đối với trái phiếu chính phủ Nhật của thị trường quốc tế đang giảm dần.
(tamnhin)
| |
| |
| |
Chuyển nhượng, cho thuê hoặc hợp tác phát triển nội dung trên các tên miền:
Quý vị quan tâm xin liên hệ: tieulong@6vnn.com