Theo nguồn tin Thương vụ Việt Nam tại Ma-rốc, Ma-rốc là thành viên của hầu hết các tổ chức quốc tế trên thế giới, là một trong những thành viên sáng lập WTO.
Chính tại TP Marrakech mà ngày 15/4/1994, 123 nước đã ký Hiệp định thành lập Tổ chức Thương mại lớn nhất thế giới này. Trong hợp tác quốc tế, Ma-rốc chủ yếu hướng về các nước EU do có vị trí địa lý thuận lợi và mối quan hệ lịch sử sẵn có. Hai bên đã ký Hiệp định Liên kết Ma-rốc – EU, có hiệu lực từ 1/3/2000. Hiệp định này nằm trong khuôn khổ chương trình hợp tác Châu Âu - Địa Trung Hải, dự kiến tự do hóa từng bước quan hệ thương mại song phương trong giai đoạn 12 năm. Theo một hiệp định ký năm 1976, tất cả các sản phẩm công nghiệp của Ma-rốc đã hoàn toàn được tự do vào EU. Với hiệp định mới này, các mặt hàng thủy sản của Ma-rốc cũng được tự do vào EU không chịu thuế và hạn ngạch. Còn các mặt hàng nông sản vẫn chịu khống chế bằng hạn ngạch. Đối với EU, tác động lớn nhất của hiệp định này là việc Ma-rốc từng bước loại bỏ thuế quan đối với hàng hóa EU trong thời hạn 12 năm. Có thể nói Ma-rốc là một đối tác được ưu tiên của Liên minh châu Âu và đóng vai trò động lực trong tiến trình Euromed (Hai hiệp định về đánh bắt và tự do hoá vận tải hàng không đã lần lượt được ký kết vào năm 2005 và 2006). Ma-rốc là nước đầu tiên được hưởng lợi từ các quỹ của châu Âu. Nước này cũng đã nộp đơn xin được hưởng quy chế sớm phát triển - quy chế trung gian giữa liên kết và gia nhập EU. Trong EU, Pháp là đối tác số một gần như trong tất cả các lĩnh vực, là quốc gia đối thoại đáng tin cậy luôn ủng hộ Ma-rốc.
Bên cạnh những mối quan hệ truyền thống này Ma-rốc còn có quan hệ ưu tiên với Mỹ. Ma-rốc và Mỹ có quan hệ song phương khá phát triển. Ma-rốc chú trọng thu hút các công ty Mỹ vào đầu tư kinh doanh. Hiệp định thương mại và đầu tư ký năm 1995 giữa Mỹ và Ma-rốc quy định các bên sẽ áp dụng những biện pháp khuyến khích thương mại hàng hóa và dịch vụ, và thiết lập các điều kiện thuận lợi cho việc phát triển quan hệ thương mại và đầu tư dài hạn. Các nhóm công tác hỗn hợp gồm các quan chức Mỹ, Ma-rốc và các đại diện khu vực tư nhân đã được lập để xác định các giải pháp cụ thể cho những mục tiêu trên. Tháng 3/2004, một hiệp định tự do mậu dịch đã được ký với Hoa Kỳ sau những cuộc đàm phán khó khăn. Hiệp định này đã có hiệu lực ngày 1/1/2006.
Song song với đó, Ma-rốc đã ký một hiệp định tự do mậu dịch với Thổ Nhĩ Kỳ (cũng có hiệu lực ngày 1/1/2006).
Ma-rốc đóng một vai trò tích cực trong các sáng kiến hội nhập khu vực. Tháng 5/2001, Ma-rốc đã ký Tuyên bố Agadir cùng với Tuynidi, Ai Cập và Jordani hướng tới mục tiêu thành lập một khu thương mại tự do giữa các nước phía nam Địa Trung Hải trước đó đã ký Hiệp định hợp tác với EU. Ma-rốc cũng là thành viên tích cực trong Liên minh Arập Maghreb (UMA).
Ma-rốc ngày càng quan tâm phát triển quan hệ kinh tế thương mại với các nước Châu Á. Với Trung Quốc, Ma-rốc đã ký nhiều hiệp định và thỏa thuận về thương mại, khuyến khích và bảo hộ đầu tư, hợp tác kinh tế kỹ thuật, vận tải hàng không, vận tải đường biển, thanh toán... Với Nhật Bản, Ma-rốc cố gắng tranh thủ vốn vay và đầu tư. Hiệp định thương mại song phương được ký từ năm 1961, với nhiều lần điều chỉnh bổ sung. Ngoài ra hai nước còn ký nhiều thỏa thuận qua đó Nhật Bản cho Ma-rốc vay vốn để phát triển kinh tế xã hội.
Về mở cửa thị trường, phù hợp với các cam kết trong khuôn khổ WTO, Chính phủ Ma-rốc đã từng bước giảm bớt các rào cản thương mại trong thập kỉ qua, tuy nhiên nhìn chung mức độ bảo hộ vẫn còn cao. Mức thuế nhập khẩu trung bình hiện nay là 35%. Thuế nhập khẩu dao động từ 2,5% đối với nguyên liệu thô, máy móc thiết bị lên đến 349% đối với một số mặt hàng thực phẩm. Hàng nhập khẩu còn phải chịu thuế giá trị gia tăng ở mức 0-20%, trong khi hàng sản xuất trong nước thường không phải chịu loại thuế này. Nói chung, hạn chế định lượng đối với các mặt hàng nông sản và thực phẩm đã được thay bằng thuế nhập khẩu ở mức cao, bình quân các loại phí và thuế nhập khẩu gộp lại khoảng 80%.
Hiện nay, 95% các mặt hàng được tự do nhập khẩu vào Ma-rốc. Hầu hết các quy định cấm nhập khẩu hoặc giấy phép nhập khẩu đã được loại bỏ, ngoại trừ vũ khí, chất nổ, quần áo và lốp xe đã qua sử dụng. Như vậy thuế quan là cơ sở duy nhất để điều chỉnh các hoạt động ngoại thương. Tuy nhiên thuế nhập khẩu ở mức cao được coi là cản trở chính đối với hàng hóa nhập khẩu vào Ma-rốc.
Về xuất khẩu, hầu hết các mặt hàng đều được xuất khẩu tự do, trừ các mặt hàng sau phải có giấy phép của Bộ Ngoại thương Ma-rốc: đồ cổ hơn 100 năm tuổi, các sản phẩm khảo cổ, lịch sử, cổ sinh vật học, những mẫu vật về giải phẫu, thực vật, khoáng chất và động vật học, than củi và bột ngũ cốc, ngoại trừ bột gạo.
Ma-rốc dự kiến sẽ giảm thuế nhập khẩu từ mức trung bình 50% hiện nay xuống còn 45% vào năm 2007.
Cho đến nay, Ma-rốc đã ký 11 hiệp định tự do mậu dịch và 7 hiệp định thuế quan có điều kiện.
11 hiệp định tự do mậu dịch Ma-rốc đã ký với các đối tác là:
1. Đại khu vực tự do mậu dịch A-rập (GAFTA) bao gồm 22 thành viên của Liên đoàn A-rập trong đó mới chỉ có 15 nước phát triển nhất (An-giê-ri, Ba-ranh, Ai Cập, I-rắc, Gioóc-đa-ni, Cô-oét, Li-băng, Li-bi, Ma-rốc, Ô-man, Qua-ta, A-rập Xê-út, Xi-ri, Tuy-ni-di và Các tiểu vương quốc A-rập thống nhất) thực hiện Hiệp định, 7 nước kém phát triển (Cô-mo, Di-bu-ti, Mô-ri-ta-ni, Nhà nước Palextin, Xô-ma-li, Xu-đăng và Yêmen) chưa áp dụng.
Hiệp định này ký năm 1981 có hiệu lực năm 1998. Giai đoạn chuyển tiếp vào tháng 1/2005.
Nội dung: Giảm 10% thuế mỗi năm giai đoạn 1998-2002 và 20% mỗi năm giai đoạn 2002-2005. Loại bỏ hoàn toàn hàng rào phi thuế nhưng vẫn duy trì giấy phép.
Quy định xuất xứ: Mang tính khu vực: 40%.
Lĩnh vực liên quan: Nông nghiệp
2. Li ên minh A-rập Mghreb (UMA) bao gồm 4 nước là Angiêri, Tuynidi, Li-bi và Mô-ri-ta-ni.
Hiệp định này ký năm 1991 vẫn chưa có hiệu lực.
Nội dung: Thuế xuất bằng 0 nhưng thuế nhập khẩu bù trừ thống nhất là 17,5%.
Quy định xuất xứ: Xuất xứ khu vực: 60%.
Lĩnh vực liên quan: Nông nghiệp
3. Li ên minh ch âu Âu (EU)
Hiệp định này ký năm 1996 có hiệu lực năm 2000. Giai đoạn chuyển tiếp 12 năm.
Nội dung: 3 chương trình giảm thuế: giảm thuế ngay lập tức ; giảm dần trong thời gian 4 năm đối với các sản phẩm không sản xuất trong nước ; giảm thuế trong thời gian 10 năm kể từ năm 2003 đối với các sản phẩm sản xuất trong nước.
Quy định xuất xứ: Song phương, có thay đổi trong hệ số HS ;
Lĩnh vực liên quan: Nông nghiệp
Đang đàm phán: Dịch vụ
4. Khu vực tự do châu Âu (ZELE)
Hiệp định này ký năm 1997 có hiệu lực năm 2000. Giai đoạn chuyển tiếp 12 năm.
Nội dung: 3 chương trình: giảm thuế ngay lập tức; giảm dần trong thời gian 4 năm đối với các sản phẩm không sản xuất trong nước; giảm dần trong thời gian 10 năm kể từ năm 2003 đối với các sản phẩm sản xuất trong nước.
Quy định xuất xứ: Song phương, có thay đổi trong hệ số HS ; Có tính gộp với An-giê-ri và Tuy-ni-di
Lĩnh vực liên quan: Nông nghiệp (theo hiệp định song phương)
5. Ai Cập
Hiệp định này ký năm 1998 có hiệu lực năm 1999. Giai đoạn chuyển tiếp 12 năm.
Nội dung: Danh sách ưu đãi loại bỏ thuế ngay lập tức; loại bỏ dần trong vòng 5 năm nếu thuế thấp hơn 25% ; ấn định mức thuế 25% nếu hiện nay thuế suất cao hơn 25% ; sau đó loại bỏ thuế trong thời gian 7 năm.
Quy định xuất xứ: Song phương, 40%
6. Gioóc-đa-ni
Hiệp định này ký năm 1998 có hiệu lực năm 1999. Giai đoạn chuyển tiếp 12 năm.
Nội dung: Danh sách ưu đãi loại bỏ thuế ngay lập tức; loại bỏ dần trong vòng 5 năm nếu thuế thấp hơn 25% ; ở mức 25% nếu hiện nay thuế suất cao hơn 25% ; sau đó loại bỏ thuế trong thời gian 7 năm
Quy định xuất xứ: Song phương, 40%
7. Tuy-ni-di
Hiệp định này ký năm 1999 có hiệu lực năm 1999. Giai đoạn chuyển tiếp 10 năm.
Nội dung: 4 danh sách đối với Ma-rốc và 3 danh sách đối với Tuy-ni-di; 3 nhóm sản phẩm: thuế suất bằng 0 ; thuế suất 17,5% ; loại bỏ trong thời gian 8 năm.
Quy định xuất xứ: Song phương, 40%
8. Các tiểu vương quốc A-rập thống nhất
Hiệp định này ký năm 2001 có hiệu lực năm 2003. Giai đoạn chuyển tiếp 10 năm.
Nội dung: 2 danh sách sản phẩm; loại bỏ thuế của Liên đoàn A-rập 10% mỗi năm.
Quy định xuất xứ: Song phương, 40%
Lĩnh vực liên quan: Nông nghiệp
9. Hiệp định Agadir bao gồm 3 nước Tuy-ni-di, Ai Cập và Gioóc-đa-ni
Hiệp định này ký năm 2004 và chưa có hiệu lực.
Nội dung: Thuế suất bằng 0 khi hiệp định có hiệu lực. Hiệp định này có giá trị hơn các hiệp định song phương đã ký trước đây.
Quy định xuất xứ: Châu Âu
Lĩnh vực liên quan: Nông nghiệp
10. Mỹ
Hiệp định này ký năm 2004 và có hiệu lực năm 2006, giai đoạn chuyển tiếp 12 năm.
Nội dung: Có 21 lịch trình cắt giảm thuế.
Quy định xuất xứ: Song phương
Lĩnh vực liên quan: Nông nghiệp, dịch vụ
11. Thổ Nhĩ Kỳ
Hiệp định này ký năm 2004 và có hiệu lực năm 2006, giai đoạn chuyển tiếp 10 năm.
Nội dung: Có 3 lịch trình cắt giảm thuế.
Quy định xuất xứ: gộp cả An-giê-ri và Tuy-ni-di
7 hiệp định thuế quan có điều kiện Ma-rốc đã ký với các nước:
1. Xê-nê-gan
Hiệp định này ký năm 1963 và có hiệu lực năm 1972.
Nội dung: Miễn thuế với giấy phép, mỗi nước có 1 danh sách
Quy định xuất xứ: Song phương, 40%
2. A-rập Xê-út
Hiệp định này ký năm 1966 và có hiệu lực năm 1988
Nội dung: Miễn thuế với giấy phép
Quy định xuất xứ: Không tính gộp, 40%
3. I-rắc
Hiệp định này ký năm 1976 và có hiệu lực năm 1983
Nội dung: Miễn thuế với giấy phép
Quy định xuất xứ: Không tính gộp, 40%
4. Mô-ri-ta-ni
Hiệp định này ký năm 1986 và có hiệu lực năm 1986
Nội dung: Miễn thuế với giấy phép, mỗi nước có một danh sách
Quy định xuất xứ: Không tính gộp, 40%
5. An-giê-ri
Hiệp định này ký năm 1989 và có hiệu lực năm 1990
Nội dung: Miễn thuế với giấy phép
Quy định xuất xứ: Song phương, 40%
6. Li-bi
Hiệp định này ký năm 1990 và có hiệu lực năm 1990
Nội dung: Miễn thuế với giấy phép
Quy định xuất xứ: Song phương, 40%
7. Ghi-nê
Hiệp định này ký năm 1997 và có hiệu lực năm 2000
Nội dung: Miễn thuế với giấy phép, mỗi nước có 1 danh sách
Quy định xuất xứ: Song phương, 40%
Ma-rốc dự kiến sẽ ký thêm các Hiệp định thương mại tự do với 6 đối tác thương mại khác là Băng-la-đét, Bra-xin, Ga-bông, I-ran, Pakixtan và Pê-ru. Những tiêu chí về kinh tế và địa lý để lựa chọn nhóm đối tác này không rõ ràng nhất là khi trao đổi thương mại của Ma-rốc với 6 nước tập trung vào một số ít sản phẩm với khối lượng tương đối thấp. Tổng cộng, 6 nước này chỉ chiếm 2,6% giá trị xuất nhập khẩu của Ma-rốc năm 2004. Mặt khác, cơ cấu sản xuất và thương mại của Ma-rốc và các đối tác này không mang tính bổ sung cho nhau trừ với Băng-la-đét.
Về đầu tư, Chính phủ Ma-rốc đã có nhiều biện pháp cải thiện môi trường đầu tư trong những năm gần đây, như tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nước ngoài tham gia chương trình tư nhân hóa, không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư nước ngoài và trong nước…
Thương vụ Việt Nam tai Ma-rốc giới thiệu một số thông tin hữu ích cho các nhà đầu tư muốn xâm nhập thị trường này.
Theo Thương vụ Việt Nam tại Ma-rốc, với doanh thu trên 60 tỷ đi-ham, lĩnh vực công nghiệp chế biến nông sản của Ma-rốc là một trong những cột trụ của nền kinh tế nước này. Tuy nhiên, tỷ trọng của nó trong GDP vẫn còn thấp so với các nước tiên tiến, chỉ chiếm 4,4% so với mức bình quân 15% trong lĩnh vực nông nghiệp.
Theo nguồn tin Thương vụ Việt Nam tại Ma-rốc, một trong những nét đặc biệt của ẩm thực Ma-rốc chắc chắn là gia vị và mùi vị quyến rũ mà nó tạo ra cho các món ăn nước này.
Theo nguồn tin Thương vụ Việt Nam tại Ma-rốc, Ma-rốc có những mỏ phốt phát lớn nhất thế giới, nằm ở Khouribga, Benguerir và Bu Cra phía Tây Xahara chiếm ¾ trữ lượng thế giới (37 tỷ m3). Đây là quốc gia sản xuất phốt phát lớn thứ 2 thế giới (sau Hoa Kỳ - năm 2005) và là nước xuất khẩu hàng đầu thế giới sản phẩm này với khối lượng khoảng 30 triệu tấn, doanh thu xuất khẩu trung bình đạt trên 900 triệu USD/năm, chiếm 33,3% thị phần quốc tế.
Theo nguồn tin Thương vụ Việt Nam tại Ma-rốc, bạn hàng lớn nhất của Ma-rốc là các nước EU, thường xuyên chiếm đến trên 2/3 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Ma-rốc, trong đó riêng buôn bán với Pháp đã chiếm tỷ trọng trên 30%. Các đối tác thương mại lớn khác là Mỹ và châu Á.
Theo nguồn tin Thương vụ Việt Nam tại Ma-rốc, trong mấy năm gần đây, kinh tế Ma-rốc cũng đạt được những thành tựu đáng khích lệ: ổn định vĩ mô được giữ vững, tỷ lệ lạm phát ở mức thấp, dự trữ ngoại hối khá cao, nợ nước ngoài giảm… Cải cách kinh tế mà Chính phủ Ma-rốc đã và đang tiến hành thu được nhiều tiến bộ.
Theo nguồn tin Thương vụ Việt Nam tại Ma-rốc, để hội nhập tốt hơn vào nền kinh tế thế giới, Ma-rốc đã thông qua chính sách tự do hoá nền kinh tế dựa trên sự năng động của khu vực kinh tế tư nhân, sự minh bạch hoá, tôn trọng Nhà nước pháp quyền và mở cửa ra thế giới bên ngoài.
Theo nguồn tin Thương vụ Việt Nam tại Ma-rốc, Ma-rốc là thành viên của hầu hết các tổ chức quốc tế trên thế giới, là một trong những thành viên sáng lập WTO.