Tin kinh tế, tài chính, đầu tư, chứng khoán,tiêu dùng

Sơ lược nền kinh tế Mỹ (6): Doanh nghiệp nhỏ

Chương 4: DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ TẬP ĐOÀN

Người Mỹ luôn luôn tin rằng họ đang sống trên một xứ sở của cơ hội, nơi mà bất kỳ người nào nếu có ý tưởng tốt, lòng quyết tâm và sẵn sàng làm việc chăm chỉ, đều có thể bắt đầu một hoạt động kinh doanh và thành đạt. Trên thực tế, lòng tin đó trong kinh doanh được thể hiện rất đa dạng, từ một cá nhân tự chủ kinh doanh cho đến tập đoàn kinh doanh quốc tế khổng lồ.

Trong thế kỷ XVII và XVIII, công chúng thường ca tụng những người đi tiên phong vượt qua khó khăn thử thách để tạo dựng một gia đình và một phương cách sống vượt lên điều kiện thiên nhiên hoang dã. Ở Mỹ thế kỷ XIX, khi các doanh nghiệp nông nghiệp nhỏ nhanh chóng phát triển rộng khắp sang các khu vực được mở rộng của biên giới nước Mỹ, người nông dân trang trại mang nhiều lý tưởng của người làm kinh tế cá thể. Nhưng đến khi dân số trong nước tăng lên và các thành phố ngày càng trở nên quan trọng cho phát triển kinh tế thì giấc mơ trở thành người kinh doanh cho chính mình còn bao gồm cả các thương gia nhỏ, thợ thủ công độc lập và những người tự hành nghề.

Thế kỷ XX, tiếp nối xu hướng bắt đầu từ nửa sau thế kỷ XIX, đã mang đến một bước chuyển biến to lớn cả về quy mô và tính phức tạp của hoạt động kinh tế. Trong nhiều ngành công nghiệp, các doanh nghiệp nhỏ thường gặp phải khó khăn trong việc huy động đủ vốn và hoạt động với quy mô đủ lớn để sản xuất hiệu quả nhất tất cả các loại hàng hóa thỏa mãn nhu cầu của những người dân ngày càng giàu có và khó tính. Trong bối cảnh đó, tập đoàn kinh tế hiện đại, nơi thường tuyển dụng hàng trăm thậm chí hàng nghìn công nhân, có tầm quan trọng ngày càng lớn.

Ngày nay, nền kinh tế Mỹ lấy làm kiêu hãnh về một mạng lưới các doanh nghiệp rộng khắp, từ các doanh nghiệp chỉ do một người làm chủ cho đến những tập đoàn lớn nhất thế giới. Năm 1995, nước Mỹ có 16,4 triệu doanh nghiệp không phải trang trại do một người làm chủ, 1,6 triệu doanh nghiệp hợp danh và 4,5 triệu tập đoàn - tổng cộng có 22,5 triệu doanh nghiệp độc lập.

Doanh nghiệp nhỏ

Nhiều khách tham quan nước ngoài lấy làm ngạc nhiên khi biết rằng thậm chí đến bây giờ, nền kinh tế Mỹ hoàn toàn không bị khống chế bởi các tập đoàn khổng lồ. 99% tất cả các doanh nghiệp độc lập trong nước tuyển dụng ít hơn 500 người. Theo Cục quản lý doanh nghiệp nhỏ Hoa Kỳ (SBA), các doanh nghiệp nhỏ này chiếm 52% tổng số lao động Mỹ. Khoảng 19,6 triệu người Mỹ làm việc cho các công ty có ít hơn 20 người, 18,4 triệu người làm việc cho các hãng có từ khoảng 20 đến 99 công nhân, và 14,6 triệu người làm cho các hãng có từ 100 đến 499 công nhân. Ngược lại, 47,7 triệu người Mỹ làm việc cho các hãng có từ 500 nhân viên trở lên.

Các doanh nghiệp nhỏ là một nguồn động lực liên tục cho nền kinh tế Mỹ. Trong thời gian từ năm 1990 đến 1995, chúng tạo ra ba phần tư số việc làm mới của nền kinh tế, một sự đóng góp vào tỷ lệ tăng trưởng việc làm thậm chí còn lớn hơn so với những gì chúng tạo ra trong thập kỷ 1980. Chúng cũng tiêu biểu cho nơi gia nhập nền kinh tế của những nhóm mới. Ví dụ, phụ nữ tham gia rất nhiều vào các hoạt động kinh doanh nhỏ. Từ năm 1987 đến năm 1997, số doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ lên đến 89%, ước tính khoảng 8,1 triệu, và số doanh nghiệp chỉ do một phụ nữ làm chủ dự tính đạt tới 35% tổng số các doanh nghiệp loại này vào năm 2000. Các hãng nhỏ cũng có xu hướng thuê nhiều hơn các công nhân lớn tuổi và những người thích làm việc theo giờ.
 


Một thế mạnh đặc biệt của doanh nghiệp nhỏ là khả năng phản ứng rất nhanh đối với các điều kiện kinh tế thay đổi. Họ thường quen biết cá nhân khách hàng của mình và đặc biệt thích hợp để thỏa mãn các nhu cầu địa phương. Các doanh nghiệp nhỏ - ví dụ các công ty kinh doanh trong lĩnh vực máy tính ở “Thung lũng Silicon” của California và các lãnh địa kỹ thuật cao khác - là những nguồn đổi mới kỹ thuật. Nhiều nhà cải cách công nghiệp - máy tính bắt đầu chỉ là “thợ sửa chữa”, làm việc bên máy móc lắp ráp bằng tay trong xưởng của mình, rồi nhanh chóng phát triển thành các tập đoàn lớn đầy sức mạnh. Các công ty nhỏ nhanh chóng trở thành các đấu thủ chính trong các nền kinh tế quốc gia và quốc tế bao gồm công ty phần mềm máy tính Microsoft; công ty dịch vụ vận chuyển bưu kiện Federal Express; công ty sản xuất quần áo thể thao Nike; hãng dịch vụ mạng máy tính America OnLine; và hãng sản xuất kem Ben & Jerry.

Tất nhiên, cũng có nhiều doanh nghiệp nhỏ thất bại. Nhưng ở Mỹ, thất bại trong kinh doanh không phải là một vết nhơ mang tính xã hội như ở một số nước. Thông thường, thất bại được xem như một bài học kinh nghiệm giá trị cho các nhà kinh doanh, những người có thể sẽ thành công trong lần thử sức sau. Các nhà kinh tế nói rằng thất bại cho thấy các lực lượng thị trường vận hành như thế nào để khuyến khích tính hiệu quả lớn hơn.

Sự đánh giá cao của dân chúng đối với hoạt động kinh doanh nhỏ đã biến thành các cuộc vận động hành lang đáng kể cho lợi ích của các doanh nghiệp nhỏ tại quốc hội và các cơ quan lập pháp bang ở Mỹ. Các công ty nhỏ đã giành được quyền miễn trừ đối với nhiều hoạt động điều tiết liên bang, chẳng hạn như các quy định về an toàn và sức khoẻ. Quốc hội cũng thành lập Cục quản lý doanh nghiệp nhỏ vào năm 1953 để trợ giúp chuyên môn và tài chính cho những người mong muốn thành lập hoặc điều hành doanh nghiệp nhỏ (35% số tiền liên bang cấp cho các hợp đồng được dành riêng cho các doanh nghiệp nhỏ). Trong một năm điển hình, Cục quản lý doanh nghiệp nhỏ Hoa Kỳ (SBA) bảo lãnh 10 tỷ USD tiền vay cho các doanh nghiệp nhỏ, thông thường dành cho vốn sản xuất, mua sắm nhà cửa, máy móc và trang thiết bị. Các công ty đầu tư kinh doanh nhỏ được SBA hỗ trợ đầu tư 2 tỷ USD nữa làm vốn kinh doanh.

SBA tìm cách hỗ trợ những chương trình dành cho các dân tộc thiểu số, đặc biệt là người Mỹ gốc Phi, gốc á và gốc Tây Ban Nha. Nó tiến hành một chương trình năng động nhằm xác định các thị trường và những cơ hội kinh doanh cho các doanh nghiệp nhỏ có tiềm năng xuất khẩu. Thêm vào đó, cơ quan này còn đỡ đầu một chương trình trong đó các doanh nhân về hưu hỗ trợ về mặt quản lý cho những doanh nghiệp mới hoặc còn yếu. Cùng cộng tác riêng với các trường đại học và các cơ quan của bang, SBA còn điều hành 900 Trung tâm phát triển doanh nghiệp nhỏ nhằm cung cấp sự trợ giúp về kỹ thuật và quản lý.

Thêm vào đó, SBA cấp tín dụng trên 26.000 triệu USD dưới hình thức những khoản cho vay với lãi suất thấp cho các chủ sở hữu nhà, người thuê nhà và các doanh nghiệp với mọi quy mô bị tổn thất do lũ lụt, gió bão, thiên tai và những thảm họa khác.

Cấu trúc doanh nghiệp nhỏ

Chủ sở hữu duy nhất. Phần lớn các doanh nghiệp đều thuộc loại doanh nghiệp chỉ có một chủ sở hữu, tức là chúng thuộc quyền sở hữu và được điều hành bởi một người duy nhất. Trong một doanh nghiệp có chủ sở hữu duy nhất, người chủ sở hữu sẽ chịu hoàn toàn trách nhiệm về thành công hoặc thất bại của doanh nghiệp. Ông hay bà ta thu về toàn bộ lợi nhuận, nhưng nếu doanh nghiệp thất thoát tiền và hoạt động kinh doanh không thể bù đắp thiệt hại này thì người chủ doanh nghiệp có trách nhiệm thanh toán các khoản đó - ngay cả khi việc này làm thâm hụt nặng nề tài sản cá nhân của ông hoặc bà ta.

Các doanh nghiệp chỉ một chủ sở hữu có những ưu việt nhất định so với các dạng tổ chức kinh doanh khác. Chúng phù hợp với khí chất của những người thích thực hiện các sáng kiến và là chủ của chính mình. Chúng rất linh hoạt vì những người chủ có thể ra quyết định rất nhanh chóng mà không phải xin ý kiến người khác. Theo luật pháp, các chủ sở hữu là cá nhân phải đóng ít thuế hơn so với các tập đoàn. Khách hàng thường bị các doanh nghiệp một chủ sở hữu lôi cuốn, tin tưởng rằng một cá nhân chịu trách nhiệm sẽ làm việc tốt.

Tuy nhiên, dạng tổ chức kinh doanh này cũng có một số hạn chế. Theo pháp luật, doanh nghiệp do một chủ sở hữu sẽ chấm dứt khi người chủ sở hữu chết hoặc không còn khả năng, dù cho một ai đó có thể thừa kế tài sản và tiếp tục hoạt động kinh doanh. Mặt khác, do doanh nghiệp một chủ sở hữu nói chung phụ thuộc vào số tiền người chủ của chúng có được hoặc vay được, nên các doanh nghiệp này thường thiếu các nguồn lực để phát triển thành doanh nghiệp có quy mô lớn.

Doanh nghiệp hợp danh. Một cách thức để bắt đầu hoặc mở rộng một hoạt động kinh doanh là tạo ra một doanh nghiệp hợp danh với hai hoặc nhiều người cùng sở hữu doanh nghiệp. Doanh nghiệp hợp danh giúp cho hoạt động kinh doanh tập trung được tài năng của từng người; chẳng hạn người này có thể có trình độ về sản xuất, trong khi người khác lại vượt trội về marketing. Doanh nghiệp hợp danh được miễn hầu hết các yêu cầu báo cáo mà chính phủ bắt các tập đoàn phải thực hiện, và bị đánh thuế thấp hơn so với các tập đoàn. Các thành viên của doanh nghiệp hợp danh phải đóng thuế thu nhập cá nhân, nhưng hoạt động kinh doanh của họ không phải chịu thuế.

Các bang quy định quyền và nghĩa vụ cho các doanh nghiệp hợp danh. Các đồng chủ sở hữu thường ký kết thỏa thuận pháp lý quy định rõ trách nhiệm của từng thành viên. Các thỏa thuận này của doanh nghiệp cũng có thể quy định cho “các thành viên hợp danh kín”, là những người đầu tư tiền vào doanh nghiệp nhưng không tham gia quản lý.

Một hạn chế cơ bản của doanh nghiệp hợp danh là mỗi thành viên phải chịu trách nhiệm pháp lý cho mọi khoản nợ của doanh nghiệp, và mỗi hoạt động của bất kỳ thành viên nào cũng có tính ràng buộc pháp lý đối với mọi người khác. Ví dụ, nếu một thành viên tiêu phung phí tiền của doanh nghiệp thì những người khác phải cùng chịu trách nhiệm chi trả cho khoản nợ đó. Một hạn chế cơ bản nữa có thể nảy sinh nếu các thành viên bất đồng nghiêm trọng và kéo dài.

Trao đặc quyền và các cửa hàng mắt xích. Các doanh nghiệp nhỏ thành đạt đôi khi phát triển thông qua một hình thức hoạt động gọi là trao đặc quyền. Trong một hợp đồng trao đặc quyền điển hình, một công ty có tiếng tăm ủy quyền cho một cá nhân hoặc một nhóm người được phép sử dụng tên và sản phẩm của mình để đổi lại một số phần trăm tiền doanh thu. Công ty đó cho mượn cả kinh nghiệm marketing và danh tiếng của mình, trong khi người kinh doanh được hưởng đặc quyền này phải tự quản lý cá nhân về đầu ra và chịu hầu hết các trách nhiệm pháp lý cũng như rủi ro liên quan tới phát triển kinh doanh.

Trong khi để có được một doanh nghiệp trao đặc quyền thường tốn kém hơn một doanh nghiệp bắt đầu từ vạch xuất phát, thì các doanh nghiệp có đặc quyền lại thường ít tốn kém cho việc điều hành hoạt động và ít bị thất bại. Sở dĩ như vậy vì các doanh nghiệp có đặc quyền thường tận dụng được lợi thế về chi phí thấp trong quảng cáo, phân phối và đào tạo công nhân.

Hoạt động trao đặc quyền thường phức tạp và tỏa ra rất rộng đến mức không ai biết được chính xác phạm vi của nó. Cục quản lý doanh nghiệp nhỏ ước tính nước Mỹ có khoảng 535.000 doanh nghiệp có đặc quyền trong năm 1992 - bao gồm các đại lý ô tô, các trạm xăng dầu, các nhà hàng, các hãng bất động sản, các khách sạn và nhà trọ, và các cửa hàng giặt là. Con số này tăng hơn khoảng 35% so với năm 1970. Doanh thu bán hàng của các cửa hàng bán lẻ có đặc quyền từ năm 1975 đến năm 1990 tăng nhanh hơn rất nhiều so với doanh thu bán hàng của các cửa hàng bán lẻ không có đặc quyền, và các công ty đặc quyền ước tính đạt khoảng 40% tổng doanh số bán lẻ của Mỹ trong năm 2000.

Tuy vậy, hình thức trao đặc quyền đã giảm đi tương đối vào thập kỷ 1990, khi nền kinh tế mạnh đã tạo ra nhiều cơ hội kinh doanh khác hơn so với hình thức trao đặc quyền. Một số công ty trao đặc quyền cũng tìm cách củng cố, mua lại các cơ sở khác có cùng kiểu kinh doanh và xây dựng mạng lưới riêng của mình. Các cửa hàng mắt xích do công ty sở hữu như Sears Roebuck & Co. cũng tiến hành cạnh tranh không khoan nhượng. Bằng cách mua hàng với số lượng lớn, bán sỉ và chú trọng tới hệ thống dịch vụ tự động, các cửa hàng mắt xích này thường bán với giá thấp hơn so với các cửa hàng của chủ sở hữu nhỏ. Ví dụ, các siêu thị mắt xích như Safeway, thường chào bán giá thấp để hấp dẫn khách hàng, và đã đánh bật khỏi thị trường nhiều cửa hàng tạp phẩm nhỏ độc lập.

Tuy nhiên, nhiều cơ sở đặc quyền vẫn tồn tại. Một số chủ sở hữu cá thể liên kết với nhau để hình thành các cửa hàng mắt xích của chính họ hoặc các hợp tác xã. Thường thường, các cửa hàng mắt xích này phục vụ cho các thị trường chuyên biệt, hoặc thị trường ngách.

Mặc dù có rất nhiều công ty với quy mô vừa và nhỏ, nhưng các đơn vị kinh doanh lớn vẫn đóng vai trò chi phối trong nền kinh tế Mỹ. Có một số lý do giải thích cho tình trạng này. Các công ty lớn có thể cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho nhiều người, và chúng thường hoạt động hiệu quả hơn các công ty nhỏ. Thêm nữa, chúng thường có thể bán các sản phẩm của mình với giá thấp hơn bởi vì hàng hóa được bán ra với số lượng lớn và giá thành thấp. Chúng có ưu thế trên thị trường vì nhiều khách hàng bị hấp dẫn bởi những nhãn hiệu nổi tiếng, điều mà họ tin là sẽ bảo đảm một mức độ chất lượng nhất định.

Các doanh nghiệp lớn còn quan trọng đối với toàn bộ nền kinh tế bởi vì chúng thường có được những nguồn tài chính lớn hơn các doanh nghiệp nhỏ để tiến hành nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới. Và nhìn chung, chúng thường đưa ra các cơ hội việc làm đa dạng hơn, ổn định hơn, lương cao hơn và phúc lợi về sức khoẻ cũng như hưu trí tốt hơn.

Tuy nhiên, người Mỹ có những quan điểm mâu thuẫn đối với các công ty lớn, một mặt họ thừa nhận sự đóng góp quan trọng của chúng đối với sự thịnh vượng của nền kinh tế, nhưng mặt khác lại lo lắng rằng chúng có thể trở nên quá mạnh đến mức bóp nghẹt các doanh nghiệp mới và tước bỏ quyền lựa chọn của người tiêu dùng. Hơn nữa, thỉnh thoảng các tập đoàn lớn tỏ ra không linh hoạt trong việc thích nghi với các điều kiện kinh tế thay đổi. Ví dụ, vào những năm 1970, các nhà sản xuất ô tô Mỹ rất chậm nhận thấy rằng giá xăng dầu đang lên sẽ tạo ra cầu về loại ô tô nhỏ, ngốn ít xăng. Kết quả là họ mất đi một thị phần đáng kể trong nước cho các nhà sản xuất nước ngoài, mà chủ yếu là từ Nhật Bản.

Trong nước Mỹ, hầu hết các doanh nghiệp lớn đều được tổ chức thành những tập đoàn. Tập đoàn là một hình thức tổ chức kinh doanh mang tính pháp lý đặc biệt, được bảo hộ bởi một trong 50 bang và được đối xử trước pháp luật như một pháp nhân. Các tập đoàn có thể sở hữu tài sản, có thể kiện hoặc bị kiện trước tòa và có thể ký kết hợp đồng. Vì bản thân tập đoàn có địa vị pháp lý riêng nên những người chủ tập đoàn được bảo vệ một phần khỏi trách nhiệm pháp lý về hoạt động của nó. Các chủ sở hữu của một tập đoàn cũng chỉ có trách nhiệm pháp lý hữu hạn về tài chính; ví dụ như họ không chịu trách nhiệm về các khoản nợ của tập đoàn. Giả sử nếu một cổ đông trả 100 USD cho 10 cổ phiếu chứng khoán của một tập đoàn và tập đoàn này bị phá sản, thì cổ đông trên có thể mất 100 USD tiền đầu tư, tất cả chỉ có vậy. Do chứng khoán của tập đoàn có thể chuyển nhượng được nên một tập đoàn không bị hủy hoại khi một chủ sở hữu cụ thể nào đó chết hoặc từ bỏ tập đoàn. Chủ sở hữu đó có thể bán cổ phần của mình vào bất cứ lúc nào, hoặc để lại cho người thừa kế.

Tuy vậy, hình thức tổ chức tập đoàn có một số hạn chế. Vì là những thực thể pháp lý rõ ràng nên các tập đoàn phải đóng thuế. Tiền lãi cổ phần tập đoàn trả cho các cổ đông, không giống như tiền lãi của trái phiếu, không phải là những chi phí kinh doanh được khấu trừ thuế. Và khi tập đoàn phân phối các khoản lãi cổ phần này thì các cổ đông phải chịu thuế cho những khoản lãi cổ phần đó. (Do tập đoàn đã đóng thuế thu nhập nên các nhà phê bình chỉ trích rằng khoản tiền đóng thuế lãi cổ phần của các cổ đông là khoản “thuế kép” đánh vào lợi nhuận của tập đoàn.)

Nhưng quyền sở hữu bị phân tán rộng cũng có nghĩa là có sự chia cắt về sở hữu và kiểm soát. Do các cổ đông nhìn chung không thể biết và quản lý toàn bộ chi tiết hoạt động kinh doanh của tập đoàn nên họ phải bầu ra một hội đồng quản trị để xây dựng chính sách lớn của tập đoàn. Thường thường, ngay cả các thành viên hội đồng quản trị và ban giám đốc tập đoàn cũng chỉ sở hữu chưa đến 5% cổ phiếu thường, mặc dù một số người có thể sở hữu nhiều hơn thế rất nhiều. Các cá nhân, các ngân hàng, các quỹ hưu trí thường sở hữu một số lượng lớn cổ phiếu nhưng nói chung số cổ phần đó chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ so với toàn bộ. Thông thường, chỉ một số ít các thành viên của hội đồng quản trị tham gia với tư cách là cán bộ điều hành tập đoàn. Một số giám đốc do công ty chỉ định để đem lại thanh thế cho hội đồng quản trị, một số khác có kỹ năng chuyên môn nhất định hoặc đại diện cho những tổ chức góp vốn. Cho nên cũng không lấy làm lạ khi một người cùng một lúc có thể tham gia vào vài hội đồng quản trị tập đoàn khác nhau.

Hội đồng quản trị tập đoàn trao quyền quyết định quản lý hàng ngày cho một tổng giám đốc điều hành (CEO), người này có thể là chủ tịch hội đồng quản trị. Tổng giám đốc điều hành giám sát các cán bộ quản lý khác, bao gồm các phó tổng giám đốc quản lý chung những chức năng khác nhau của tập đoàn, cũng như giám đốc tài chính, giám đốc điều hành, và giám đốc phụ trách thông tin (CIO). Giám đốc thông tin nhanh chóng có vai trò quan trọng đối với tập đoàn khi công nghệ cao trở thành một yếu tố quan trọng trong hoạt động kinh doanh ở Hoa Kỳ cuối những năm 1990.

Khi tổng giám đốc điều hành được hội đồng quản trị tin cậy, ông hoặc bà ta nói chung được phép có nhiều quyền tự do điều hành hoạt động của tập đoàn. Nhưng đôi khi các cổ đông là cá nhân hoặc tổ chức, phối hợp nhịp nhàng và ủng hộ những ứng cử viên bất đồng quan điểm vào ban lãnh đạo, có thể dùng sức ép đủ mạnh để buộc có những thay đổi trong quản lý.

Nhìn chung, chỉ có rất ít người có mặt trong các buổi họp cổ đông hàng năm. Hầu hết các cổ đông lựa chọn bầu hội đồng quản trị và bỏ phiếu thông qua các đề xuất chính sách quan trọng bằng hình thức “ủy nhiệm” - tức là bầu chọn bằng cách gửi thư. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, một số cuộc họp hàng năm đã có nhiều cổ đông hơn tham gia - có thể có đến vài trăm người có mặt. Ủy ban chứng khoán và hối phiếu Hoa Kỳ (SCE) yêu cầu các tập đoàn đưa cho những nhóm bất đồng về quản lý danh sách địa chỉ thư tín của các cổ đông để họ có thể trình bày các quan điểm của mình.

(Nguồn: Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam)

  • Sơ lược nền kinh tế Mỹ (1): Tính liên tục và thay đổi
  • Sơ lược nền kinh tế Mỹ (2): Nền kinh tế Mỹ vận hành như thế nào - Phần 1: Những nhân tố cấu thành cơ bản của nền kinh tế Mỹ
  • Sơ lược nền kinh tế Mỹ (3): Nền kinh tế Mỹ vận hành như thế nào - Phần 2: Vai trò của chính phủ trong nền kinh tế
  • Sơ lược nền kinh tế Mỹ (4): Lịch sử nền kinh tế Mỹ - Phần 1: Thuộc địa hóa và phát triển
  • Sơ lược nền kinh tế Mỹ (5): Tóm lược lịch sử nền kinh tế Mỹ - Phần 2: Nền kinh tế qua các giai đoạn
  • Sơ lược nền kinh tế Mỹ (6): Doanh nghiệp nhỏ
  • Sơ lược nền kinh tế Mỹ (7): Các tập đoàn
  • Sơ lược nền kinh tế Mỹ (8): Chứng khoán, hàng hóa và thị trường - Phần 1: Sở giao dịch chứng khoán
  • Sơ lược nền kinh tế Mỹ (9): Chứng khoán, hàng hóa và thị trường - Phần 2: Các chiến lược thị trường
  • Sơ lược nền kinh tế Mỹ (10): Vai trò của chính phủ trong nền kinh tế - Phần 1: Chính sách tự do và sự can thiệp của chính phủ
  • Sơ lược nền kinh tế Mỹ (11): Vai trò của chính phủ trong nền kinh tế - Phần 2
  • Sơ lược nền kinh tế Mỹ (12): Chínhh sách tiền tệ và chính sách tài khoản - Phần 1: Ngân sách, thuế và ổn định nền kinh tế
  • Sơ lược nền kinh tế Mỹ (13): Chínhh sách tiền tệ và chính sách tài khoản - Phần 2: Tiền tệ trong nền kinh tế Mỹ
  • Sơ lược nền kinh tế Mỹ (14): Ngành nông nghiệp Mỹ: Tầm quan trọng đang thay đổi - Phần 1: Chính sách
  • Sơ lược nền kinh tế Mỹ (15): Lao động ở Mỹ: Vai trò của người lao động - Phần 1