Tin kinh tế, tài chính, đầu tư, chứng khoán,tiêu dùng

Sơ lược nền kinh tế Mỹ (5): Tóm lược lịch sử nền kinh tế Mỹ - Phần 2: Nền kinh tế qua các giai đoạn

Nền kinh tế sau chiến tranh: 1945-1960

Nhiều người Mỹ lo sợ rằng việc kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai và sự cắt giảm chi tiêu quân sự tiếp sau đó có thể đưa đất nước quay lại thời kỳ khó khăn của cuộc Đại khủng hoảng kinh tế. Nhưng thay vào đó, nhu cầu tiêu dùng bị kìm nén đã tạo đà tăng trưởng kinh tế cực kỳ mạnh mẽ trong giai đoạn sau chiến tranh. Ngành công nghiệp ô tô quay lại sản xuất ô tô với thành công lớn, nhiều ngành công nghiệp mới như hàng không và điện tử phát triển nhảy vọt. Nhà ở tăng nhanh, được khuyến khích một phần bởi các khoản thế chấp khá dễ dàng dành cho những người trở về từ quân ngũ, cũng góp phần vào sự tăng trưởng. Tổng sản phẩm quốc dân tăng từ 200 tỷ USD năm 1940 lên đến 300 tỷ USD năm 1950 và hơn 500 tỷ USD năm 1960. Cùng lúc đó, sự tăng vọt tỷ lệ sinh sau chiến tranh, còn được gọi là “sự bùng nổ trẻ em”, làm số người tiêu dùng tăng lên. Ngày càng có nhiều người Mỹ được xếp vào tầng lớp trung lưu.

Nhu cầu sản xuất các công cụ phục vụ chiến tranh đã tạo ra một tổ hợp công nghiệp - quân sự khổng lồ (một khái niệm do Dwight D. Eisenhower, Tổng thống Mỹ từ năm 1953 đến 1961, đặt ra). Nó không bị mất đi khi chiến tranh chấm dứt. Khi Bức màn sắt hạ xuống cắt ngang châu Âu và nước Mỹ thấy mình bị lôi kéo vào cuộc chiến tranh lạnh với Liên Xô, chính phủ vẫn duy trì khả năng chiến đấu thực sự và đầu tư vào những vũ khí tinh vi, chẳng hạn như bom hydro. Viện trợ kinh tế cho các nước châu Âu bị chiến tranh tàn phá theo Kế hoạch Marshall cũng giúp duy trì thị trường cho nhiều hàng hóa Mỹ. Và bản thân chính phủ cũng nhận ra vai trò trung tâm của mình trong các hoạt động kinh tế. Đạo luật việc làm năm 1946 đã khẳng định chính sách của chính phủ là “thúc đẩy tối đa việc làm, sản xuất và sức mua”.

Thời kỳ sau chiến tranh, Hoa Kỳ cũng nhận ra sự cần thiết phải cấu trúc lại các tổ chức tiền tệ quốc tế, đi đầu trong việc thành lập Quỹ Tiền tệ quốc tế và Ngân hàng thế giới - những tổ chức được hình thành nhằm bảo đảm một nền kinh tế quốc tế tư bản chủ nghĩa công khai.

Trong khi đó, các doanh nghiệp bước vào thời kỳ được đánh dấu bởi sự sáp nhập. Các hãng hợp nhất lại tạo ra những tập đoàn kinh tế đa dạng khổng lồ. Ví dụ như Tập đoàn điện thoại và điện báo quốc tế (International Telephone and Telegraph) đã mua lại các hãng Sheraton Hotels, Continental Banking, Hartford Fire Insurance, Avis Rent-a-Car, và nhiều công ty khác.

Lực lượng lao động Mỹ cũng thay đổi đáng kể. Trong những năm 1950, số lao động trong ngành cung cấp dịch vụ tăng lên bằng rồi vượt số người sản xuất hàng hoá. Cho tới năm 1956, số lao động Mỹ làm công việc hành chính văn phòng nhiều hơn số công nhân trực tiếp sản xuất. Cùng lúc đó, các nghiệp đoàn lao động đã giành được các hợp đồng lao động dài hạn và những phúc lợi khác cho thành viên của mình.
 


Nông dân, trái lại, phải đối mặt với một thời kỳ khó khăn. Do nông nghiệp trở thành một ngành kinh doanh lớn, sự gia tăng năng suất đã dẫn đến sản xuất nông nghiệp dư thừa. Các gia đình nông dân nhỏ càng gặp nhiều khó khăn trong cạnh tranh, và ngày càng có nhiều nông dân rời bỏ ruộng đất. Kết quả là số người làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp bắt đầu giảm liên tục; từ con số 7,9 triệu người năm 1947, đến năm 1998 chỉ còn 3,4 triệu người làm việc trong các trang trại Mỹ.

Những người Mỹ khác cũng di chuyển. Sự gia tăng nhu cầu về nhà ở cho các gia đình riêng và sở hữu riêng ô tô tăng mạnh dẫn đến việc nhiều người Mỹ chuyển từ các trung tâm thành phố về vùng ngoại ô. Cùng với những đổi mới công nghệ, chẳng hạn như phát minh máy điều hòa nhiệt độ, sự dịch chuyển dân cư này đã kích thích phát triển các thành phố ở “Vành đai mặt trời” như Houston, Atlanta, Miami và Phoenix ở các bang phía Nam và Tây Nam. Khi những con đường cao tốc mới được liên bang đỡ đầu tạo ra tuyến giao thông tốt hơn tới các vùng ngoại ô thì các mô hình kinh doanh cũng thay đổi. Các trung tâm buôn bán nhân lên gấp bội, từ 8 trung tâm trong giai đoạn cuối Chiến tranh thế giới thứ hai lên đến 3.840 vào năm 1960. Nhiều ngành công nghiệp cũng dịch chuyển theo, khiến cho các thành phố bớt đông đúc hơn.

Thời kỳ thay đổi: Thập kỷ 1960 và 1970


Những năm 1950 ở Mỹ thường được mô tả là một thời kỳ ưng ý. Trái lại, các thập kỷ 1960 và 1970 là thời kỳ có sự thay đổi lớn. Các quốc gia mới xuất hiện trên khắp thế giới, những phong trào nổi dậy tìm cách lật đổ các chính phủ đang cầm quyền, các nước độc lập đã phát triển thành những quốc gia có tiềm lực kinh tế cạnh tranh với Mỹ, và các mối quan hệ kinh tế giữ vai trò chi phối trong một thế giới ngày càng thừa nhận rằng sức mạnh quân sự không phải là phương tiện duy nhất để tăng trưởng và phát triển.

Tổng thống John F. Kennedy (1961-1963) đã chỉ ra phương thức tích cực hơn để lãnh đạo đất nước. Trong chiến dịch vận động tranh cử tổng thống của mình năm 1960, Kennedy nói ông muốn yêu cầu người Mỹ chấp nhận những thách thức của “Biên giới mới”. Khi là tổng thống, ông đã tìm cách đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế bằng việc tăng cường chi tiêu chính phủ và cắt giảm thuế, và thúc giục các hoạt động trợ giúp y tế cho người già, trợ cấp cho các khu ổ chuột trong thành phố, và tăng ngân sách cho giáo dục. Nhiều đề xuất của ông không được thông qua, mặc dù quan điểm của Kennedy về việc đưa người Mỹ ra nước ngoài để giúp các nước đang phát triển đã trở thành hiện thực với việc hình thành Đội hòa bình Mỹ. Kennedy cũng tăng cường hoạt động khám phá vũ trụ của Mỹ. Sau khi ông qua đời, chương trình vũ trụ của Mỹ đã có những thành công vượt trội hơn so với Liên Xô và đạt tới đỉnh cao bằng sự kiện các nhà phi hành Mỹ đặt chân lên mặt trăng vào tháng Bảy 1969.

Việc ám sát Kennedy năm 1963 đã thúc giục quốc hội thông qua phần lớn chương trình nghị sự lập pháp của ông. Người kế nhiệm ông, Lyndon Baines Johnson (1963-1969) tìm cách xây dựng một “Xã hội vĩ đại” bằng việc phân phối rộng khắp các lợi ích thu được từ nền kinh tế phát đạt của Mỹ cho nhiều công dân hơn nữa. Chi tiêu liên bang tăng mạnh khi chính phủ đưa ra các chương trình mới như chương trình Bảo hiểm y tế (chăm sóc sức khoẻ cho người già), chương trình Tem phiếu thực phẩm (giúp đỡ thực phẩm cho người nghèo), và rất nhiều sáng kiến về giáo dục (giúp đỡ sinh viên cũng như trợ cấp cho các trường phổ thông và đại học).

Chi tiêu quốc phòng cũng tăng lên khi sự tham gia của Mỹ ở Việt Nam gia tăng. Cái mà khi bắt đầu chỉ là một hoạt động quân sự nhỏ dưới thời Kennedy đã biến thành một sáng kiến quân sự lớn dưới thời Tổng thống Johnson. Một điều thật mỉa mai là chi tiêu cho cả hai cuộc chiến - cuộc chiến chống đói nghèo và chiến tranh ở Việt Nam - đã góp phần tạo ra sự thịnh vượng trong một thời gian ngắn ngủi. Nhưng vào cuối thập kỷ 1960, thất bại của chính phủ trong việc tăng thuế để trang trải cho những cố gắng đó dẫn đến lạm phát tăng vọt, điều này đã làm suy mòn sự thịnh vượng ấy. Cuộc cấm vận dầu mỏ 1973-1974 của các nước thuộc Tổ chức xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) đã đẩy giá năng lượng lên rất cao và gây ra tình trạng thiếu hụt trầm trọng. Ngay cả sau khi lệnh cấm vận kết thúc, giá năng lượng vẫn ở mức cao, làm tăng thêm lạm phát và cuối cùng làm tăng tỷ lệ thất nghiệp. Thâm hụt ngân sách liên bang tăng lên, cạnh tranh nước ngoài khốc liệt và thị trường chứng khoán sa sút.

Chiến tranh Việt Nam kéo dài đến tận năm 1975, Tổng thống Richard Nixon (1969-1974) phải từ chức do nguy cơ bị quốc hội luận tội, một nhóm người Mỹ bị bắt cóc làm con tin tại sứ quán Mỹ ở Teheran và bị giam giữ hơn một năm. Quốc gia này dường như không thể kiểm soát nổi các sự kiện, kể cả các vấn đề kinh tế. Thâm hụt thương mại của Mỹ tăng lên do hàng hóa nhập khẩu với giá rẻ và thường là có chất lượng cao gồm mọi thứ từ ô tô đến thép và cả chất bán dẫn tràn ngập vào thị trường Mỹ.

Khái niệm “lạm phát đình đốn” - một đặc trưng của nền kinh tế trong đó lạm phát tiếp tục tăng và hoạt động kinh doanh đình trệ, cùng với tỷ lệ thất nghiệp gia tăng - đã mô tả tình trạng suy yếu mới này của nền kinh tế. Lạm phát dường như trầm trọng thêm bởi chính bản thân nó. Mọi người bắt đầu lo ngại sự leo cao liên tục của giá cả hàng hóa nên họ mua nhiều hơn. Lượng cầu tăng lên này lại đẩy tiếp giá lên, dẫn đến yêu cầu về lương cao hơn làm đẩy giá tiếp tục cao lên mãi trong một vòng xoáy trôn ốc. Các hợp đồng lao động ngày càng có xu hướng bao gồm cả các điều khoản điều chỉnh tự động theo chi phí sinh hoạt, và chính phủ bắt đầu đặt định mức cho một số khoản thanh toán, chẳng hạn như các khoản thanh toán của chương trình An sinh xã hội, theo chỉ số giá tiêu dùng, một công cụ được xem là tốt nhất để đo mức độ lạm phát. Trong khi các hoạt động đó giúp cho công nhân và những người về hưu đối phó với lạm phát, thì chúng lại duy trì lạm phát. Nhu cầu về ngân sách của chính phủ tăng chưa từng thấy làm thâm hụt ngân sách càng lớn hơn, dẫn đến vay nợ của chính phủ tăng lên, chính điều này lại đẩy tỷ lệ lãi suất lên cao đồng thời làm tăng thêm nữa chi phí đối với các doanh nghiệp và người tiêu dùng. Do chi phí năng lượng và tỷ lệ lãi suất cao nên đầu tư cho kinh doanh giảm sút và thất nghiệp tăng đến mức đáng lo ngại.

Trong tuyệt vọng, Tổng thống Jimmy Carter (1977 - 1981) đã cố gắng chống đỡ lại những yếu kém kinh tế và thất nghiệp bằng cách tăng chi tiêu của chính phủ, và ông xây dựng những nguyên tắc chỉ đạo về giá và lương chủ động để kiểm soát lạm phát. Nhưng cả hai giải pháp trên phần lớn đều thất bại. Có lẽ một giải pháp chống lại lạm phát mang đến nhiều thành công hơn nhưng ít gây ấn tượng là thực hiện “phi điều tiết” trong nhiều ngành công nghiệp, bao gồm ngành hàng không, vận tải và đường sắt. Các ngành này từng bị điều tiết quá chặt chẽ với sự kiểm soát của chính phủ về tuyến đường và giá vé. Sự ủng hộ phi điều tiết vẫn tiếp tục sau chính quyền Carter. Vào thập kỷ 1980, chính phủ nới lỏng kiểm soát tỷ lệ lãi suất ngân hàng và dịch vụ điện thoại đường dài, và trong thập kỷ 1990 chuyển sang giảm bớt điều tiết đối với dịch vụ điện thoại địa phương.

Nhưng nhân tố quan trọng nhất trong cuộc chiến chống lạm phát là Cục dự trữ liên bang (Fed), cơ quan kiểm soát chặt chẽ mức cung tiền bắt đầu vào năm 1979. Bằng việc từ chối cung tất cả mọi khoản tiền mà một nền kinh tế bị lạm phát tàn phá mong muốn, Fed đã làm cho tỷ lệ lãi suất tăng lên. Kết quả là các khoản chi tiêu cho tiêu dùng và khoản vay để kinh doanh giảm xuống đột ngột. Nền kinh tế lại nhanh chóng rơi vào trì trệ nặng nề.

Nền kinh tế trong thập kỷ 1980


Nước Mỹ đã trải qua một đợt suy thoái nặng nề trong suốt năm 1982. Số doanh nghiệp phá sản tăng 50% so với năm trước. Nông dân gặp rất nhiều khó khăn khi xuất khẩu hàng nông nghiệp giảm sút, giá nông phẩm đi xuống và tỷ lệ lãi suất lại tăng. Nhưng trong khi liều thuốc đắng của suy giảm sâu sắc thật khó nuốt thì chính nó lại bẻ gãy chu kỳ suy thoái tiêu cực mà nền kinh tế gặp phải. Năm 1983, lạm phát đã lắng xuống, nền kinh tế hồi phục lại và nước Mỹ bắt đầu một chu kỳ tăng trưởng kinh tế bền vững. Tỷ lệ lạm phát hàng năm được duy trì dưới 5% trong suốt thập kỷ 1980 và sang cả thập kỷ 1990.

Sự biến động về kinh tế của thập kỷ 1970 có những hậu quả chính trị quan trọng. Người Mỹ bày tỏ sự bất bình của mình với các chính sách của liên bang bằng việc phế bỏ Carter năm 1980 đồng thời bầu Ronald Reagan, một cựu diễn viên điện ảnh Hollywood và là thống đốc bang California, làm tổng thống. Reagan (1981-1989) đặt ra chương trình kinh tế của mình dựa trên cơ sở lý thuyết kinh tế trọng cung, ủng hộ việc cắt giảm thuế suất sao cho mọi người có thể giữ lại được nhiều hơn số tiền họ kiếm được. Lý thuyết này cho rằng thuế suất thấp hơn khiến mọi người làm việc nhiều hơn và cố gắng hơn, và điều này lại dẫn tới tiết kiệm và đầu tư nhiều hơn, kết quả là sản xuất ra nhiều hơn và kích thích toàn bộ nền kinh tế tăng trưởng. Trong khi chính sách cắt giảm thuế do Reagan đưa ra chủ yếu phục vụ cho lợi ích của những người Mỹ giàu có, lý thuyết kinh tế đằng sau việc cắt giảm thuế này chỉ ra rằng lợi ích cũng được mở rộng cho những người có thu nhập thấp hơn bởi vì đầu tư tăng lên dẫn đến nhiều cơ hội việc làm mới và lương cao hơn.

Tuy nhiên, chủ đề trọng tâm trong chương trình nghị sự quốc gia của Reagan là quan điểm của ông cho rằng chính phủ liên bang đã trở nên quá cồng kềnh và lạm dụng. Vào đầu thập kỷ 1980, đồng thời với việc cắt giảm thuế, Reagan cũng giảm mạnh các chương trình xã hội. Trong suốt nhiệm kỳ của mình, Reagan cũng tiến hành một chiến dịch nhằm giảm bớt hoặc xóa bỏ các hoạt động điều tiết của chính phủ tác động tới người tiêu dùng, việc làm và môi trường. Tuy nhiên, cùng lúc đó, ông sợ rằng nước Mỹ thờ ơ với quân đội của mình sau chiến tranh Việt Nam nên đã đẩy mạnh chi tiêu cho quốc phòng.

Sự kết hợp giữa cắt giảm thuế và đẩy mạnh chi tiêu quốc phòng lấn át hẳn việc giảm có mức độ chi tiêu cho các chương trình trong nước. Kết quả là thâm hụt ngân sách liên bang tăng lên thậm chí vượt cả mức thời kỳ kinh tế đình trệ nặng nề đầu thập kỷ 1980. Từ 74 tỷ USD năm 1980, thâm hụt ngân sách liên bang đã tăng tới 221 tỷ USD năm 1986. Nó giảm xuống 150 tỷ USD năm 1987 nhưng sau đó bắt đầu tăng trở lại. Một số nhà kinh tế lo lắng rằng việc chi tiêu và vay nợ quá nhiều của chính phủ liên bang có thể thổi bùng lạm phát, nhưng Cục dự trữ liên bang vẫn duy trì cảnh giác với việc kiểm soát giá cả leo thang, cơ động nhanh chóng để nâng lãi suất lên bất kỳ lúc nào cảm thấy bị đe dọa. Cục dự trữ liên bang dưới thời chủ tịch Paul Volcker và người kế nhiệm ông, Alan Greenspan, đã giữ vai trò trung tâm của cảnh sát giao thông kinh tế, lấn át cả quốc hội và tổng thống trong việc chỉ dẫn nền kinh tế quốc gia.

Việc khôi phục kinh tế mà trước hết là tập trung sức lực ở đầu thập kỷ 1980 không phải không có vấn đề của nó. Nông dân, đặc biệt là những người quản lý các trang trại gia đình nhỏ, tiếp tục phải đối mặt với những thách thức nảy sinh trong cuộc sống, đặc biệt trong năm 1986 và 1988, khi miền trung đất nước gặp hạn hán nặng nề và một vài năm sau đó lại phải gánh chịu lũ lụt nghiêm trọng. Một số ngân hàng đã dao động bởi tiền tệ bị thắt chặt, đồng thời hoạt động cho vay lại không thận trọng, đặc biệt là các tổ chức tín dụng được gọi là các hiệp hội tiết kiệm và cho vay đã cho vay tiền bừa bãi sau khi được phi điều tiết một phần. Chính phủ liên bang đóng cửa rất nhiều tổ chức như vậy và thanh toán hết cho những người gửi tiền, một khoản phí tổn khổng lồ đối với người dân Mỹ.

Trong khi Reagan và người kế nhiệm ông, George Bush (1989-1993), nắm quyền đúng lúc chế độ cộng sản sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu, thì thập kỷ 1980 không hoàn toàn xóa bỏ được tình trạng kinh tế trì trệ đã gắn chặt với đất nước này trong suốt thập kỷ 1970. Nước Mỹ bị thâm hụt thương mại trong suốt bảy năm của thập kỷ 1970, và thâm hụt thương mại vẫn tiếp tục tăng lên trong thập kỷ 1980. Các nền kinh tế tăng trưởng mạnh ở châu Á xuất hiện như những cường quốc kinh tế thách thức nước Mỹ. Đặc biệt là Nhật Bản, với sự tập trung vào kế hoạch dài hạn và sự phối hợp chặt chẽ giữa các tập đoàn kinh doanh, ngân hàng và chính phủ, dường như đưa ra một mô hình tăng trưởng kinh tế mới.

Trong khi đó ở nước Mỹ, “những kẻ chộp giật tập thể” đã mua lại rất nhiều tập đoàn khác nhau khi giá cổ phiếu của chúng bị ép xuống và sau đó cấu trúc lại, bằng việc bán đứt một số hoạt động hoặc chia nhỏ những tập đoàn này. Trong một số trường hợp, có những công ty phải bỏ ra rất nhiều tiền để mua lại chính cổ phiếu của mình hoặc trả cho những kẻ chộp giật. Các nhà phê bình chứng kiến những trận chiến như vậy với tâm trạng hoang mang, tuyên bố rằng những kẻ chộp giật đang phá hoại các công ty hoạt động tốt và gây ra đau khổ cho công nhân, rất nhiều người trong số họ mất việc làm khi cấu trúc lại tập đoàn. Nhưng một số người khác lại cho rằng những người chộp giật đã có một đóng góp rất ý nghĩa vào nền kinh tế, bằng việc tiếp quản các công ty quản lý yếu kém, thu gọn cơ cấu của chúng và làm cho chúng lại có khả năng sinh lợi nhuận, hoặc bán đứt chúng để nhà đầu tư có thể thu được lợi nhuận và đầu tư lại vào những công ty sản xuất tốt hơn.

Thập kỷ 1990 và sau đó

Thập kỷ 1990 đưa đến một vị tổng thống mới, Bill Clinton (1993-2001). Là một người Dân chủ ôn hòa và thận trọng, Clinton đưa ra một số chủ trương giống như những người tiền nhiệm của ông. Sau khi không thành công trong việc thuyết phục quốc hội thông qua một đề xuất đầy tham vọng về mở rộng bảo hiểm y tế, Clinton tuyên bố rằng kỷ nguyên của “chính phủ lớn” ở Mỹ đã kết thúc. Ông đã nỗ lực để tăng cường sức mạnh cho các lực lượng thị trường trong một số lĩnh vực, phối hợp với quốc hội để đưa dịch vụ điện thoại địa phương vào cạnh tranh. Ông cũng đồng tình với những người Cộng hòa để cắt giảm phúc lợi. Tuy nhiên, dù Clinton đã cắt giảm quy mô bộ máy làm việc của liên bang, chính phủ vẫn tiếp tục đóng vai trò chủ chốt trong nền kinh tế quốc gia. Hầu hết những sáng kiến quan trọng trong thời Chính sách mới và rất nhiều chương trình của giai đoạn Xã hội vĩ đại vẫn được duy trì. Và hệ thống Dự trữ liên bang tiếp tục điều tiết nhịp độ chung của hoạt động kinh tế, với sự cảnh giác cao độ trước bất kỳ dấu hiệu mới nào của lạm phát.

Đồng thời, trong suốt những năm 1990, nền kinh tế vận hành ngày càng lành mạnh. Với sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản ở Liên Xô và Đông Âu vào cuối thập kỷ 1980, các cơ hội buôn bán mở ra rất lớn. Những tiến bộ về công nghệ mang lại một loạt các sản phẩm điện tử mới hết sức tinh vi. Những đổi mới trong thông tin viễn thông và hệ thống mạng máy tính đã sản sinh ra một ngành công nghiệp lớn về phần cứng và phần mềm máy tính và cách mạng hóa phương thức hoạt động của nhiều ngành công nghiệp. Nền kinh tế tăng trưởng nhanh chóng và lợi nhuận của các tập đoàn cũng tăng mạnh. Cùng với lạm phát và thất nghiệp ở mức thấp, những khoản lợi nhuận lớn được đưa vào thị trường chứng khoán đang dấy lên sôi động; chỉ số bình quân công nghiệp Dow Jones chỉ ở mức 1.000 điểm vào cuối thập kỷ 1970 thì năm 1999 đã lên đến 11.000 điểm, góp phần đáng kể vào sự giàu có của nhiều người Mỹ - tuy không phải là tất cả.

Nền kinh tế Nhật Bản, thường được người Mỹ xem là hình mẫu ở thập kỷ 1980, lại rơi vào trì trệ kéo dài - một diễn biến làm cho nhiều nhà kinh tế đi đến kết luận rằng cách tiếp cận linh hoạt hơn, ít kế hoạch hóa hơn, và cạnh tranh hơn của Mỹ thực sự là một chiến lược tốt hơn để tăng trưởng kinh tế trong môi trường mới, hội nhập toàn cầu.

Lực lượng lao động của Mỹ thay đổi đáng kể trong những năm 1990. Số nông dân tiếp tục giảm phản ánh một xu hướng trong dài hạn. Một tỷ lệ nhỏ công nhân làm việc trong ngành công nghiệp, còn lại phần lớn làm việc trong lĩnh vực dịch vụ với những công việc từ thủ kho cho đến lập kế hoạch tài chính. Nếu thép và giầy dép đã từng là mặt hàng sản xuất chủ lực của Mỹ thì nay máy tính và phần mềm đang thay thế chúng.

Sau khi đạt tới đỉnh cao với 290 tỷ USD vào năm 1992, ngân sách liên bang liên tục thu hẹp lại do tăng trưởng kinh tế và mức tăng thu nhập từ thuế. Năm 1998, chính phủ công bố thặng dư ngân sách lần đầu tiên trong vòng 30 năm qua, mặc dù một khoản nợ khổng lồ - chủ yếu dưới dạng các khoản thanh toán trong tương lai của chương trình An sinh xã hội dành cho thế hệ sinh ra trong thời kỳ bùng nổ dân số - vẫn còn đó. Các nhà kinh tế, ngạc nhiên trước sự kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế nhanh và lạm phát thấp kéo dài, đã tranh luận về việc liệu nước Mỹ có một “nền kinh tế mới” có khả năng duy trì được tỷ lệ tăng trưởng nhanh hơn so với khả năng có thể dựa vào kinh nghiệm của 40 năm trước hay không.

Cuối cùng, nền kinh tế Mỹ đã gắn bó chặt chẽ với nền kinh tế toàn cầu hơn bao giờ hết. Clinton, giống như những người tiền nhiệm của ông, tiếp tục đẩy mạnh việc xóa bỏ các rào cản thương mại. Hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA) đã tăng cường hơn nữa các mối quan hệ kinh tế giữa Mỹ và những đối tác thương mại lớn nhất của mình là Canada và Mêhicô. Châu Á, khu vực tăng trưởng rất nhanh trong suốt thập kỷ 1980, đã cùng với châu Âu trở thành nơi cung cấp hàng hóa thành phẩm chủ yếu và là một thị trường cho hàng xuất khẩu của Mỹ. Những hệ thống liên lạc viễn thông toàn cầu tinh vi đã liên kết các thị trường tài chính của thế giới thành một mối, một điều không thể hình dung nổi ngay trong vài năm trước.

Trong khi nhiều người Mỹ vẫn tin rằng hội nhập kinh tế toàn cầu mang lại lợi ích cho tất cả các quốc gia, thì sự phụ thuộc lẫn nhau tăng lên cũng đã tạo ra một số trục trặc nhất định. Người lao động ở các ngành công nghệ cao - những ngành mà Mỹ vượt trội - được trả lương tương đối cao, nhưng trong các ngành sản xuất truyền thống, việc cạnh tranh với nhiều nước ngoài, thường là những nước có chi phí lao động thấp, đã tạo ra xu hướng dìm mức lương xuống. Tiếp nữa, khi nền kinh tế của Nhật Bản và những nước công nghiệp hóa mới nổi lên khác ở châu Á giảm sút vào cuối thập kỷ 1990, làn sóng những cú sốc đã xé toạc hệ thống tài chính toàn cầu. Các nhà hoạch định chính sách kinh tế của Mỹ nhận thấy họ phải cân nhắc hơn nữa những điều kiện kinh tế toàn cầu khi vạch ra biểu đồ cho nền kinh tế trong nước.

Tuy vậy, người Mỹ đã khôi phục được lòng tin khi kết thúc thập kỷ 1990. Đến cuối năm 1999, nền kinh tế Mỹ đã tăng trưởng liên tục tính từ tháng Ba 1991, đây là thời kỳ phát triển kinh tế trong thời bình dài nhất trong lịch sử nước Mỹ. Tháng Mười một 1999, tổng số người thất nghiệp chỉ chiếm 4,1% lực lượng lao động, một tỷ lệ thấp nhất trong gần 30 năm qua. Và giá cả hàng hóa tiêu dùng, chỉ tăng 1,6% trong năm 1998 (tỷ lệ tăng thấp nhất ngoại trừ một năm kể từ 1964), chỉ tăng lên chút ít trong năm 1999 (2,4% tính đến tháng Mười). Vẫn còn nhiều thách thức ở phía trước, nhưng quốc gia này đã vượt qua thế kỷ XX - cùng những biến động to lớn của thế kỷ này - trong tình trạng sung sức.

(Nguồn: Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam)

  • Sơ lược nền kinh tế Mỹ (1): Tính liên tục và thay đổi
  • Sơ lược nền kinh tế Mỹ (2): Nền kinh tế Mỹ vận hành như thế nào - Phần 1: Những nhân tố cấu thành cơ bản của nền kinh tế Mỹ
  • Sơ lược nền kinh tế Mỹ (3): Nền kinh tế Mỹ vận hành như thế nào - Phần 2: Vai trò của chính phủ trong nền kinh tế
  • Sơ lược nền kinh tế Mỹ (4): Lịch sử nền kinh tế Mỹ - Phần 1: Thuộc địa hóa và phát triển
  • Sơ lược nền kinh tế Mỹ (5): Tóm lược lịch sử nền kinh tế Mỹ - Phần 2: Nền kinh tế qua các giai đoạn
  • Sơ lược nền kinh tế Mỹ (6): Doanh nghiệp nhỏ
  • Sơ lược nền kinh tế Mỹ (7): Các tập đoàn
  • Sơ lược nền kinh tế Mỹ (8): Chứng khoán, hàng hóa và thị trường - Phần 1: Sở giao dịch chứng khoán
  • Sơ lược nền kinh tế Mỹ (9): Chứng khoán, hàng hóa và thị trường - Phần 2: Các chiến lược thị trường
  • Sơ lược nền kinh tế Mỹ (10): Vai trò của chính phủ trong nền kinh tế - Phần 1: Chính sách tự do và sự can thiệp của chính phủ
  • Sơ lược nền kinh tế Mỹ (11): Vai trò của chính phủ trong nền kinh tế - Phần 2
  • Sơ lược nền kinh tế Mỹ (12): Chínhh sách tiền tệ và chính sách tài khoản - Phần 1: Ngân sách, thuế và ổn định nền kinh tế
  • Sơ lược nền kinh tế Mỹ (13): Chínhh sách tiền tệ và chính sách tài khoản - Phần 2: Tiền tệ trong nền kinh tế Mỹ
  • Sơ lược nền kinh tế Mỹ (14): Ngành nông nghiệp Mỹ: Tầm quan trọng đang thay đổi - Phần 1: Chính sách
  • Sơ lược nền kinh tế Mỹ (15): Lao động ở Mỹ: Vai trò của người lao động - Phần 1