Ông Bùi Bá Bổng, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cho biết, theo kế hoạch tháng 8 năm nay, Chính phủ sẽ phê duyệt điều chỉnh quy hoạch phát triển càphê Việt Nam giai đoạn 2010-2015 và định hướng năm 2020.
Phát biểu tại Hội nghị đánh giá tình hình sản xuất, tiêu thụ càphê niên vụ 2009-2010 và bàn giải pháp phát triển càphê bền vững trong thời gian tới, ông Bổng nhấn mạnh, trên cơ sở quy hoạch, các địa phương sẽ phải rà soát và điều chỉnh chi tiết phát triển diện tích trồng càphê của từng tỉnh, chuyển đổi những diện tích càphê kém hiệu quả sang trồng cây khác.
Đồng thời, tiếp tục mở rộng diện tích càphê chè thay thế cho càphê vối ở những nơi có điều kiện; khuyến khích trồng càphê giống mới, chất lượng tốt; tăng cường đầu tư trong khâu thu hoạch, chế biến.
Ông Phan Huy Thông, Phó Cục trưởng, Cục Trồng trọt Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cho biết, trong khoảng 30 năm gần đây, giá càphê tăng giảm thường liên quan đến diện tích trồng càphê.
Từ chỗ sản lượng và giá trị càphê xuất khẩu không đáng kể trước năm 1975, sau 30 năm phát triển, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu đứng thứ 2 thế giới và đứng thứ nhất về xuất khẩu càphê vối.
Càphê đã trở thành một trong 5 mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực với sản lượng xuất khẩu trên 1 triệu tấn/năm và đạt kim ngạch xuất khẩu gần 2 tỷ USD/năm và đứng thứ hai sau mặt hàng gạo.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành công to lớn, ngành càphê Việt Nam cũng có nhiều vấn đề bất cập, tồn tại cần sớm được khắc phục để đảm bảo cho phát triển bền vững, ông Thông nói.
Giai đoạn 1999 đến 2004, giá càphê xuống thấp nhất trong lịch sử, sau đó giá đã được cải thiện và năm 2007-2008 Việt Nam đã thu được kết quả tốt nhất trong vòng 20 năm trở lại đây với lượng xuất khẩu năm 2008 là hơn 1 triệu tấn, đạt giá trị trên 2,1ỷ USD và đơn giá bình quân là 1.993 USD/tấn.
Tuy vậy, trong hai năm 2009 và 2010, do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế và tài chính thế giới, ngành càphê Việt Nam lại đi vào thời kỳ khó khăn cả về khối lượng và kim ngạch xuất khẩu.
Trong 4 tháng đầu năm nay, Việt Nam đã xuất khẩu khoảng 465.000 tấn và đạt kim ngạch 651 triệu USD, giảm trên 16% về lượng và gần 23 % về giá trị. Giá xuất khẩu bình quân khoảng 1.390 USD/tấn, giảm trên 100 USD/tấn so với cùng kỳ năm trước.
Theo ông Thông, nguyên nhân của sự giảm sút về khối lượng và giá trị xuất khẩu trong năm 2009 và niên vụ 2009/2010 là do mưa ảnh hưởng đến chất lượng càphê; hệ thống chế biến, tiêu thụ, xuất khẩu chưa tốt dẫn đến tình trạng bị ép giá, tranh mua, tranh bán ngay trên “sân nhà.”
Theo đánh giá của Hiệp hội càphê-ca cao Việt Nam, sản lượng niên vụ càphê 2009-2010 giảm từ 20-30% nhưng chất lượng càphê tốt hơn vụ trước. Tuy nhiên, do giá càphê thế giới liên tục giảm, giá càphê trong nước cũng giảm theo, có lúc xuống còn 22 triệu đồng/tấn, mất 50% so với giá đỉnh cao của năm 2008.
Trước tình hình trên, Hiệp hội đã kiến nghị với Chính phủ có biện pháp hỗ trợ thị trường. Ngay khi Thủ tướng đồng ý ủng hộ chương trình mua trữ 200.000 tấn càphê, giá trong nước đã nhích lên 24 triệu đồng/tấn. Đồng thời, ngành càphê cũng được sự ủng hộ của các bộ, ngành như cho doanh nghiệp vay với lãi suất hỗ trợ để mua trữ càphê.
Số liệu của Bộ Nông nghiệp cho biết, diện tích càphê của Việt Nam ước khoảng 521.000ha, trong đó 93% diện tích trồng càphê vối. Tuy nhiên, 95% diện tích càphê trên là do nông hộ quản lý, sản xuất quy mô nhỏ nên việc thu hoạch, chế biến và bảo quản càphê còn kém, dẫn đến chất lượng không ổn định./.
Khoảng cách giàu - nghèo không phải chỉ là một chỉ tiêu kinh tế. Nó còn phản ánh sự gắn kết xã hội và là một thể hiện của sự bình đẳng trong xã hội. Khoảng cách giàu - nghèo ắt sẽ nảy sinh. Nhưng sự bền vững của phát triển ở tất cả các nước, và hơn thế nữa định hướng xã hội chủ nghĩa, không chấp nhận khoảng cách giàu - nghèo đi vào phân cực quá một ngưỡng cho phép.
Hiện nay quy mô của các vùng kinh tế trọng điểm (VKTTĐ) đã mở rộng đến gấn 25% diện tích và chiếm khoảng 70% thu nhập kinh tế của cả nước. Một vấn đề đặt ra là: quan điểm ngày càng mở rộng quy mô diện tích của các VKTTĐ của Việt Nam có hợp lý hay không? Làm thế nào để các VKTTĐ phải thực sự là động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế của cả nước ,có một thế đứng vững chắc trong tương lai nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
Theo tính toán của Ban quản lý các khu công nghiệp và khu chế xuất (KCN & KCX) Hà Nội. Đến năm 2020, Hà Nội sẽ có khoảng 800.000 người, trong đó có 640.000 người có nhu cầu nhà ở tại chỗ. Do đó năm 2020, Hà Nội cần thêm 500 ha đất xây dựng nhà cho công nhân với số vốn đầu tư khoảng 12.000 tỷ đồng.
Cải thiện kết nối cung cầu nhằm tăng khả năng có việc làm bền vững và giảm thất nghiệp, thiếu việc làm… là mục tiêu được nhấn mạnh tại dự thảo khung chiến lược việc làm giai đoạn 2011-2020.
Ông Bùi Bá Bổng, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cho biết, theo kế hoạch tháng 8 năm nay, Chính phủ sẽ phê duyệt điều chỉnh quy hoạch phát triển càphê Việt Nam giai đoạn 2010-2015 và định hướng năm 2020.
Kể từ khi khu kinh tế ven biển đầu tiên là Chu Lai được thành lập năm 2003, đến nay đã có 14 khu kinh tế biển được thành lập, gồm 2 khu ở đồng bằng sông Hồng, 10 khu ở vùng duyên hải miền Trung và 2 khu ở miền Nam. Theo Quy hoạch phát triển các KKT biển đến năm 2020 cả nước sẽ có 15 khu kinh tế biển với kinh phí đầu tư khoảng 162.000 tỷ đồng và tạo việc làm cho khoảng 500.000 ngàn người.
Trong chiến lược phát triển đến năm 2020, nước ta phấn đấu cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, riêng Hải Phòng phải phấn đấu đạt sớm hơn mục tiêu đó.
Để đạt mục tiêu năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp, thì việc phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất (KCN, KCX) là một trong những nhân tố quan trọng.
Ðể đưa Kon Tum thoát nghèo, trong những năm qua, tỉnh đã đề ra nhiều chủ trương giải pháp sát hợp tình hình thực tế. Trong đó, Ðề án đầu tư xây dựng và phát triển các vùng kinh tế động lực tỉnh Kon Tum giai đoạn 2007-2010, có tính đến năm 2020, được coi là đòn bẩy phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Theo Quy hoạch phát triển kinh tế đảo Việt Nam đến năm 2020 vừa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, dự tính tổng nhu cầu vốn đầu tư cho hệ thống đảo từ nay đến năm 2020 khoảng 162,5 tỷ đồng. Trong đó, giai đoạn 2011 – 2015 cần khoảng 51,8 nghìn tỷ đồng.
Hà Nội cùng cả nước đang tập trung mọi nguồn lực nhằm thực hiện thắng lợi công cuộc CNH-HĐH, góp phần đưa nước ta cơ bản trở thành nước CNH vào năm 2020. Quy hoạch phát triển KT-XH Thủ đô được xem như chiếc khung định hướng tương lai...
Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải giao Bộ Xây dựng gấp rút xây dựng Chương trình tổng thể xử lý chất thải rắn sinh hoạt, áp dụng công nghệ hạn chế chôn lấp giai đoạn 2010-2020, khắc phục tình trạng hết sức bức xúc về rác thải hiện nay.
Đó là ý kiến của các đại biểu tại Hội nghị xin ý kiến các nhà khoa học về “Chiến lược phát triển KTXH Thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn 2050” và “Quy hoạch tổng thể phát triển KTXH TP Hà Nội đến năm 2020, tầm nhìn 2030” được Thường trực HĐND Thành phố Hà Nội tổ chức ngày 2/4.