Tin kinh tế, tài chính, đầu tư, chứng khoán,tiêu dùng

Phát triển kinh tế biển đảo Việt Nam: Thực trạng và triển vọng

Kinh tế biển Việt Nam: Thực trạng và thách thức
(Theo VnMedia )

Nước ta là một quốc gia có biển lớn trong vùng Biển Đông với chỉ số biển khoảng 0,01, gấp 6 lần giá trị trung bình của thế giới. Biển Việt Nam dài và đẹp, lại chứa đựng nhiều nguồn tài nguyên phong phú và đa dạng với trữ lượng, quy mô thuộc loại khá, cho phép phát triển nhiều lĩnh vực kinh tế biển quan trọng. Kinh tế biển đã và đang đóng góp một phần rất lớn cho nền kinh tế nước nhà.

Thực trạng

Theo ước tính, quy mô kinh tế (GDP) biển và vùng ven biển Việt Nam bình quân đạt khoảng 47- 48% GDP cả nước, trong đó GDP của kinh tế “thuần biển” đạt khoảng 20-22% tổng GDP cả nước. Trong các ngành kinh tế biển, đóng góp của các ngành kinh tế diễn ra trên biển chiếm tới 98%, chủ yếu là khai thác dầu khí, hải sản, hàng hải (vận tải biển và dịch vụ cảng biển), du lịch biển. Các ngành kinh tế có liên quan trực tiếp tới khai thác biển như đóng và sửa chữa tàu biển, chế biến dầu khí, chế biến thủy hải sản, thông tin liên lạc,...bước đầu phát triển, nhưng hiện tại quy mô còn rất nhỏ bé (chỉ chiếm khoảng 2% kinh tế biển và 0,4% tổng GDP cả nước), song trong tương lai sẽ có mức gia tăng nhanh hơn.

Gần đây, kinh tế trên một số đảo đã có bước phát triển  nhờ chính sách di dân và đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng trên các đảo (hệ thống giao thông, mạng lưới điện, cung cấp nước ngọt, trường học, bệnh xá...). Tuy vậy, có thể nhận định một cách khái quát rằng, sự phát triển của kinh tế biển còn quá nhỏ bé và nhiều yếu kém. Quy mô kinh tế biển Việt Nam chỉ đạt khoảng hơn 10 tỷ USD; trong khi sản lượng kinh tế biển của thế giới ước 1.300 tỷ USD, Nhật Bản là 468 tỷ USD, Hàn Quốc là 33 tỷ USD. Cơ sở hạ tầng các vùng biển, ven biển và hải đảo còn yếu kém, lạc hậu. Hệ thống cảng biển nhỏ bé, manh mún, thiết bị nhìn chung còn lạc hậu và chưa đồng bộ nên hiệu quả thấp. Các chỉ tiêu hàng thông qua cảng trên đầu người rất thấp so với các nước trong khu vực (chỉ bằng 1/140 của Xingapo, 1/7 của Malaixia và 1/5 của Thái Lan).

Đến nay, Việt Nam vẫn chưa có đường bộ cao tốc chạy dọc theo bờ biển, nối liền các thành phố, khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển thành một hệ thống kinh tế biển liên hoàn. Các sân bay ven biển và trên một số đảo nhỏ bé. Các thành phố, thị trấn, khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển còn nhỏ bé, đang trong thời kỳ bắt đầu xây dựng. Hệ thống các cơ sở nghiên cứu khoa học-công nghệ biển, đào tạo nhân lực cho kinh tế biển, các cơ sở quan trắc, dự báo, cảnh báo thời thiết, thiên tai, các trung tâm tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn,...còn nhỏ bé, trang bị thô sơ.

Du lịch biển là một tiềm năng kinh doanh lớn. Vùng biển và ven biển tập trung tới 3/4 khu du lịch tổng hợp và 10/17 khu du lịch chuyên đề. Tuy nhiên, ngành du lịch biển vẫn thiếu những sản phẩm dịch vụ biển-đảo đặc sắc có tính cạnh tranh cao so với khu vực và quốc tế, chưa có khu du lịch biển tổng hợp đạt trình độ quốc tế. Khai thác hải sản và nuôi thuỷ sản nước lợ vốn là lĩnh vực kinh tế đặc trưng của biển đã đóng góp khoảng hơn 3 tỷ USD trong tổng giá trị thuỷ sản xuất khẩu (năm 2008) và tạo việc làm cho hơn 1 triệu lao động đánh cá trực tiếp, nuôi thuỷ sản và 50 vạn lao động dịch vụ liên quan.

Đối với các lĩnh vực kinh tế liên quan trực tiếp đến biển như chế biến sản phẩm dầu, khí; chế biến thủy hải sản, đóng và sửa chữa tàu biển, sản xuất muối biển công nghiệp, các dịch vụ kinh tế biển và ven biển (như thông tin, tìm kiếm cứu nạn hàng hải, dịch vụ viễn thông công cộng biển trong nước và quốc tế, nghiên cứu khoa học-công nghệ biển, xuất khẩu thuyền viên,...) hiện chủ yếu mới ở mức đang bắt đầu xây dựng, hình thành và quy mô còn nhỏ bé.

Khai thác biển - đảo đã đem lại những lợi ích kinh tế -xã hội bước đầu quan trọng, nhưng việc sử dụng biển và hải đảo chưa hiệu quả, thiếu bền vững, trình độ khai thác biển của nước ta vẫn đang ở tình trạng lạc hậu nhất trong khu vực. Việt Nam tuy là một quốc gia biển, song đến nay, chúng ta vẫn chưa thực sự dựa vào biển để phát triển đúng tiềm năng và thế mạnh. Việt Nam vẫn chưa phải là quốc gia mạnh về biển, vẫn chưa phải là một “cường quốc biển”.

Thách thức

Lịch sử phát triển của thế giới cho thấy những bước đột phá phát triển mang tầm thế giới cho đến nay hầu như đều bắt nguồn từ những quốc gia - biển (đại dương). Đó là Italia, Anh, Nhật Bản, Xingapo, Trung Quốc...Ngày nay, thế giới đang bước vào giai đoạn bùng nổ phát triển mới với xu hướng ngày càng khẳng định tầm quan trọng to lớn của biển và đại dương. Tình trạng khan hiếm nguyên liệu, năng lượng trở nên gay gắt hơn bao giờ hết, dẫn tới cạnh tranh thị trường, tranh chấp lãnh thổ và xung đột quốc gia thường xuyên và gay gắt. Vươn ra biển, khai thác đại dương đã trở thành khẩu hiệu hành động mang tính chiến lược của toàn thế giới.

Chính vì lẽ đó mà không phải ngẫu nhiên luận điểm “Thế  kỷ XXI là thế kỷ của đại dương” xuất hiện và được nhất trí cao trên toàn thế giới. Việt Nam cũng hoà chung xu hướng đó. Xác định được tầm quan trọng của kinh tế biển, tại Hội nghị lần thứ 4, BCH Trung ương Đảng khoá X đã xây dựng Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, trong đó nhấn mạnh:  “Phấn đấu đến năm 2020, kinh tế biển và ven biển đóng góp khoảng 53%-55% tổng GDP của cả nước”.

 
Tuy nhiên, trong vấn đề phát triển kinh tế biển có nhiều thách thức đang được đặt ra. Đó là tài nguyên biển thuộc dạng tài nguyên chia sẻ , chứa đựng “yếu tố không gian”, là tiền đề phát triển đa ngành. Song, việc quản lý biển - đảo đến nay vẫn theo cách tiếp cận mở kiểu “điền tư, ngư chung” và chủ yếu quản lý theo ngành. Trong một thời gian dài, quản lý biển đã thuộc về nhiều ngành, cơ quan và chủ yếu quan tâm đến vấn đề chủ quyền, an ninh trên biển,…quản lý tài nguyên và môi trường biển xem như còn bỏ trống. Các phương thức, cách tiếp cận mới chậm được áp dụng, nếu đã áp dụng cũng chưa có khả năng nhân rộng, như: tiếp cận hệ thống, tổng hợp, liên ngành trong quản lý biển và vùng bờ, quản lý dựa vào hệ sinh thái  và đồng quản lý.

Khu vực Biển Đông đang có tranh chấp gay gắt, nên việc hợp tác và hội nhập quốc tế  để phát triển kinh tế ở khu vực này còn gặp không ít khó khăn. Việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến biển, những vi phạm trong quá trình sử dụng, khai thác tài nguyên biển chưa có các quy định cụ thể mang tính pháp quy như trong quản lý sử dụng đất  trên đất liền và còn nhiều bất cập.

Ngoài ra, nước ta là một trong 5 nước chịu tác động mạnh mẽ nhất của biến đổi khí hậu và dâng cao mực nước biển, trước hết là vùng ven biển và các đảo nhỏ. Các hệ sinh thái ven biển, các giá trị dịch vụ của chúng, người dân ven biển và trên các đảo là những đối tượng dễ bị tổn thương và bị tác động mạnh mẽ nhất, nhưng đến nay còn thiếu những nghiên cứu cụ thể về vấn đề này, cũng như chưa có giải pháp lồng ghép và mô hình thích ứng với biến đổi khí hậu và dâng cao mực nước biển.

Năm 2009 được dự báo là năm kinh tế sẽ gặp nhiều khó khăn. Do đó kinh tế biển càng phải vượt qua nhiều thách thức. Để giàu từ biển, mạnh lên từ biển, nước ta cần phải xây dựng được một nền khoa học - công nghệ biển hiện đại; phát triển được một nền kinh tế biển hiệu quả, bền vững và có khả năng hội nhập quốc tế; có một phương thức quản lý tổng hợp biển và  bảo đảm được an ninh chủ quyền vùng biển.

Kinh tế biển TP.HCM : Chậm còn hơn không
(Thư Anh // Báo Doanh Nhân)

Diện tích nhỏ hơn, dân số đông hơn, TP HCM luôn có tổng mức thu ngân sách gấp đôi Hà Nội, trong đó có hơn một nửa là từ thuế xuất nhập khẩu hàng hóa qua hệ thống cảng biển và các nguồn thu khác liên quan đến hàng hải…

 So sánh mức thu ngân sách giữa TP.HCM và Hà Nội có thể xem là một ví dụ thuyết phục về những lợi ích mà kinh tế biển mang lại, ông Ngô Lực Tải, Phó Chủ tịch Hội Khoa học kinh tế và kinh tế biển TP.HCM nói như vậy trong một cuộc hội thảo gần đây. Vậy mà Việt Nam đã khá chậm chân trong việc mở cửa các vùng ven biển.

Mở rồi vẫn có thể mở hơn!

Theo TSKH Võ Đại Lược, từ năm 1978, Trung Quốc đã thực hiện chính sách mở cửa các vùng ven biển và thu được những thành tựu nổi bật. Vậy mà nước này vẫn bị coi là “bỏ lỡ cơ hội”, vì các nước Đông Á đã làm việc này sớm hơn - từ những năm 1960. Còn tại Việt Nam, cho đến nay tuy đã quyết định xây dựng 15 KKT biển (1 khu sẽ triển khai sau năm 2010), hơn 200 khu công nghiệp, KKT cửa khẩu, nhưng chưa có một khu nào thực sự là KKT mở để tận dụng hết lợi thế địa kinh tế biển. Hơn 3.000 km bờ biển với 50 cửa sông, có những cảng nước sâu có điều kiện tốt vào loại hàng đầu thế giới; nằm ở vị trí liên thông giữa nhiều quốc gia…, “Việt Nam hội tụ đầy đủ lợi thế mặt tiền, ngã tư, vùng trung tâm khu vực phát triển năng động”, ông Lược khẳng định.

Phản biện lại quan niệm cho rằng, một khi Việt Nam đã vào AFTA, đã gia nhập WTO cũng có nghĩa là đã “mở cửa cả nước”, không cần thiết phải xây dựng các KKT tự do nữa, ông Lược phân tích, chính hội nhập quốc tế càng sâu rộng thì ta lại càng có cơ hội lớn hơn và càng cần có nhiều cửa mở hơn để thu hút những nguồn lực bên ngoài. Điều này lý giải tại sao cho đến nay các KKT tự do ở Đông Á vẫn phát triển còn mạnh mẽ hơn trước, có mức độ “mở” cao hơn các cam kết quốc tế và mức tập trung hiện đại hóa cơ sở hạ tầng cao hơn, thể chế kinh tế và hành chính thông thoáng hơn.

Thực tế là thể chế kinh tế có mức độ tự do càng cao thì hiệu quả kinh tế càng lớn. Tháng 7/2006, Chính phủ Hàn Quốc thậm chí đã trao cho KKT biển Incheon quy chế “tự trị đặc biệt” với tham vọng biến nơi đây thành địa chỉ có môi trường kinh doanh tốt hơn cả Hồng Kông và Singapore. Và Singapore, một quốc gia vốn đã có nền kinh tế vào loại tự do hàng đầu thế giới, cũng vẫn quyết định xây dựng khu mậu dịch tự do ở Jurong.

“Đây là một giai đoạn phát triển mới của các KKT tự do. Nếu có đủ điều kiện, nghĩa là xét thấy có lợi thế thì phải tận dụng triệt để. Tất cả các khu vực có cảng quốc tế đều có thể cho phép áp dụng thể chế KKT mở”, TSKH Võ Đại Lược kết luận.  

“Lộ thông thì tài thông”

Trong khi đồng thuận với sự cần thiết của việc đẩy nhanh lộ trình phát triển các KKT mở ven biển, GS Phan Chánh Dưỡng (Đại học Fullbright) nhấn mạnh 2 yếu tố then chốt: “lộ thông thì tài thông” và “thành phố nuôi cảng, cảng nuôi thành phố”.

Điều đầu tiên cần làm để phát triển thành công một KKT là liên kết nó với các thành phố ven biển và các vùng kinh tế trọng điểm bằng hệ thống đường cao tốc. Ngoài những con đường hữu hình này, những “con đường” vô hình khác cũng cần được khai thông, đó là hệ thống hành chính và luật lệ kinh tế liên quan như hải quan, tín dụng, tài chính… “Lộ thông” là như vậy, ông Dưỡng lý giải.

Bên cạnh đó, cảng là đầu mối giao thông, nếu cảng yếu kém, thành phố sẽ khó phát triển và ngược lại, nếu không có hàng hóa của thành phố ra vào thì cảng sẽ “chết”. Theo ông Dưỡng, đây là lý do tại sao TP Biên Hòa và TP Mỹ Tho còn có cảng trước TP.HCM, nhưng do không có cảng tốt nên đã để TP.HCM “qua mặt”, trở thành thành phố công nghiệp, thương mại dịch vụ phát triển nhất phía Nam và cả nước. Nhận định này được ông Nguyễn Xuân Thủy, Trưởng Ban Quản lý KKT Dung Quất (Quảng Ngãi) đồng tình. Ông Thủy cho biết, xây dựng cảng biển hiện đại là điều kiện tiên quyết để thu hút các dự án - đặc biệt là dự án công nghiệp nặng - vào KKT đang được đánh giá là hoạt động khá thành công này.

Tuy nhiên, điều không kém phần quan trọng là sự liên kết giữa các KKT với nhau để bổ sung cho nhau. Đơn cử, KKT Chu Lai, thuộc tỉnh Quảng Nam hàng xóm láng giềng với Quảng Ngãi, hoàn toàn có thể chú trọng phát triển các loại hình dịch vụ du lịch, vui chơi giải trí, nghỉ dưỡng cao cấp… để phục vụ đội ngũ chuyên gia nước ngoài đến làm việc tại KKT Dung Quất. Nếu như KKT Dung Quất chú trọng thu hút các “ông lớn” công nghiệp như Doosan (Hàn Quốc) thì khách hàng mục tiêu của Chu Lai lại là những doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, phần lớn là doanh nghiệp trong nước.

Cuối cùng, trong điều kiện nguồn lực còn hạn chế của một nước vừa chạm ngưỡng thu nhập trung bình, ông Dưỡng khuyến cáo: “Việt Nam không thể đầu tư tràn lan như hiện nay. Nếu cần xây dựng một cảng trung chuyển đủ tầm cho quốc gia và quốc tế thì chỉ nên tập trung cho một nơi và đầu tư đủ tầm. Và không được chậm trễ trong việc đầu tư cho giáo dục để đào tạo cán bộ cho các ngành kinh tế liên quan”.

Kể từ khi KKT ven biển đầu tiên là Chu Lai được thành lập năm 2003, đến nay đã có 14 KKT  được thành lập, gồm 2 khu ở đồng bằng sông Hồng, 10 khu ở vùng duyên hải miền Trung và 2 khu ở miền Nam. Theo Quy hoạch phát triển các KKT biển đến năm 2020, đến thời điểm 2020, cả nước sẽ có 15 KKT (thêm KKT Năm Căn, Cà Mau). Ngoài 9 KKT là Chu Lai, Dung Quất, Nhơn Hội, Nghi Sơn, Vũng Áng, Chân Mây - Lăng Cô, Vân Phong, Vân Đồn, Nam Phú Yên đã cơ bản hoàn thành quy hoạch chung, quy hoạch chi tiết các phân khu chức năng và đang tiến hành đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật - xã hội… các khu khác đang trong giai đoạn xây dựng quy hoạch, chuẩn bị và hoàn thiện nhân sự, chuẩn bị tiền đề cho việc lập dự án và huy động vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng…

Đến hết năm 2009, các KKT đã thu hút được 550 dự án trong nước và nước ngoài với tổng vốn đầu tư trên 24,4 tỷ USD và 219.156 tỷ đồng. Dự kiến đến năm 2015, các KKT thu hút được khoảng trên 1.000 dự án, trong đó có khoảng 45-50% là dự án đầu tư nước ngoài, còn lại là dự án trong nước với tổng vốn đăng ký khoảng 45 - 47 tỷ USD và 240 - 260.000 tỷ đồng. Các KKT ven biển đóng góp khoảng 5% vào GDP của cả nước, tạo ra việc làm phi nông nghiệp cho 300 - 500.000 người.


Đầu tư hơn 162.000 tỷ đồng phát triển kinh tế biển đảo
( Nguồn: click here )

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vừa ban hành quyết định phê duyệt Quy hoạch phát triển kinh tế đảo Việt Nam đến năm 2020. Mục tiêu quy hoạch nhằm phát triển kinh tế biển, đảo và xây dựng hệ thống đảo trở thành tuyến phòng thủ vững chắc bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia các vùng biển đảo của Tổ quốc.

Khai thác dầu khí tạo sự bứt phá cho kinh tế biển đảo góp phần phát triển kinh tế đất nước.

Theo đó, một số đảo có vị trí, điều kiện tự nhiên thuận lợi và nhiều tiềm năng sẽ được tập trung xây dựng, tạo sự bứt phá cho kinh tế biển đảo, góp phần phát triển kinh tế cả nước, đồng thời làm đầu mối quan trọng để gắn kết kinh tế đảo với kinh tế biển, ven biển và vùng nội địa và giao lưu kinh tế quốc tế.

Để phục vụ mục tiêu này, hệ thống kết cấu hạ tầng thiết yếu trên các đảo (cầu cảng, giao thông, điện, nước, thông tin và hạ tầng xã hội) sẽ được tập trung xây dựng nhằm tạo điều kiện phát triển kinh tế, kết nối các đảo với đất liền và bảo vệ vững chắc vùng biển của Tổ quốc.

Phấn đấu nâng mức đóng góp của kinh tế biển đảo trong kinh tế cả nước từ 0,2% hiện nay lên 0,5% vào năm 2020 và tốc độ tăng trưởng kinh tế đảo đạt  bình quân 14-15%/năm.

Cụ thể, Quy hoạch sẽ tập trung phát triển các đảo trọng điểm như: Đảo Phú Quốc (Kiên Giang), Vân Đồn (Quảng Ninh), Côn Đảo (Bà Rịa-Vũng Tàu), Cô Tô-Thanh Lân (Quảng Ninh), Cát Bà-Cát Hải (Hải Phòng), Lý Sơn (Quảng Ngãi), Phú Quý (Bình Thuận)…

Để thực hiện Quy hoạch này, Chính phủ sẽ triển khai đồng bộ các giải pháp liên quan đến hoàn thiện khung pháp lý, phát triển nguồn nhân lực, đẩy mạnh áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, đẩy mạnh điều tra cơ bản và nghiên cứu khoa học.

Dự kiến, tổng nhu cầu vốn đầu tư cho hệ thống đảo từ nay đến 2020 khoảng 162,5 ngàn tỷ đồng, trong đó vốn cho giai đoạn 2010-2015 khoảng 51,8 ngàn tỷ đồng được huy động từ các nguồn ngân sách, các nguồn vốn ngoài ngân sách và vốn nước ngoài.

Kinh tế biển thiếu sức cạnh tranh
(Trí Tín // Vnexpress)

Thứ trưởng thường trực Bộ Tài nguyên môi trường Nguyễn Văn Đức cho rằng, kinh tế biển phát triển chưa tương xứng với tiềm năng là do chưa xây dựng được một hình ảnh "Việt Nam biển".

"Nền kinh tế biển Việt Nam cần phát triển theo hướng bền vững, có thương hiệu trong xu thế hội nhập quốc tế", Thứ trưởng Đức nhấn mạnh tại Diễn đàn Thương hiệu biển lần 2, diễn ra tại Quảng Ngãi hôm nay, 19/3.

Hơn 300 nhà quản lý, nhà nghiên cứu, chuyên gia cùng nhiều lãnh đạo tập đoàn kinh tế trong nước và quốc tế, tham dự diễn đàn.

Theo các chuyên gia, vùng biển Việt Nam được biết đến như một khu vực giàu tài nguyên thiên nhiên, cứ 100 km2 đất liền là có một km bờ biển. Đây là chỉ số lãnh thổ quan trọng cho phát triển cảng và hàng hải, cũng như các khu kinh tế hướng biển. Trong đó kinh tế hàng hải và các dịch vụ đi kèm đã trở thành một ngành mũi nhọn được ưu tiên phát triển trong chiến lược biển đến năm 2020.

Các chuyên gia cho rằng, tài nguyên biển, đảo Việt Nam nếu có được chiến lược tiếp thị thương hiệu đúng đắn sẽ tạo ra một nguồn lực kinh tế vô cùng to lớn. “Chỉ có nâng cao được các giá trị thương hiệu đối với sản phẩm, dịch vụ từ biển, thì mới có thể hạch toán được đầy đủ, toàn diện giá trị tài nguyên biển để phát triển bền vững đất nước”, Tổng cục trưởng Biển và hải đảo Việt Nam Nguyễn Văn Cư nêu quan điểm.

Việt Nam hiện có 15 khu kinh tế biển, ven biển trên cả nước. Đánh giá hiệu quả các khu kinh tế biển, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi Nguyễn Xuân Huế lấy khu kinh tế ven biển Dung Quất làm ví dụ. Theo đó, thực tiễn phát triển khu kinh tế ven biển Dung Quất đã cho thấy hiệu ứng lan tỏa của vùng đối với toàn bộ kinh tế của tỉnh theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Giai đoạn năm 2006-2009, khu kinh tế Dung Quất đã góp gần 50% tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh, đưa Quảng Ngãi từ một tỉnh có nguồn thu ngân sách thấp gia nhập "Câu lạc bộ 1.000 tỷ đồng" vào năm 2006, rồi lên 4.000 tỷ đồng vào năm 2009. Dự kiến năm 2010 này Quảng Ngãi gia nhập “Câu lạc bộ 14.000 tỷ đồng” thu ngân sách, thuộc top 10 tỉnh có nguồn thu cao của cả nước.

"Xây dựng, phát triển thương hiệu biển Việt Nam trong các lĩnh vực và vùng địa lý, trong đó có cảng nước sâu và khu kinh tế ven biển theo hướng kinh tế xanh là hướng đi đúng, giải pháp trước mắt và lâu dài để giải quyết vấn đề", ông Huế khẳng định.

Diễn đàn thương hiệu biển Việt Nam lần này đề xuất những giải pháp phát triển kinh tế biển gửi Chính phủ. Trong đó, đề nghị Nhà nước sớm ban hành đồng bộ hệ thống cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư phát triển các sản phẩm có thương hiệu mạnh trong kinh tế biển; chú trọng xây dựng thương hiệu biển Việt Nam như một chương trình quốc gia cần hướng tới.

Các chuyên gia đề nghị cần nghiên cứu lựa chọn xây dựng vài khu kinh tế tự do ven biển, mở ra bước đột phá phát triển kinh tế biển. Có cơ chế hỗ trợ khuyến khích phát triển các cơ sở công nghiệp chế biến sản phẩm có thương hiệu truyền thống từ biển; gắn kết và phát huy kinh tế vùng (duyên hải, biển và hải đảo).

Diễn đàn cũng đề nghị rà soát, quy hoạch hoàn chỉnh hệ thống cảng biển quốc gia đạt tiêu chuẩn khu vực, nhằm tạo cửa mở lớn liên thông với quốc tế; xây dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh, làm chủ công trong phát triển kinh tế biển...

Vai trò của kinh tế biển đối với phát triển công nghiệp
( Theo Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam )

Vai trò của phát triển kinh tế biển trong phát triển công nghiệp thể hiện rõ nhất là phát triển giao thông vận tảI, dầu khí, điện lực và khai thác khoảng sản.
Phát triển giao thông nối liền với nhiều quốc gia nhất và có chi phí vận tải thấp nhất nhưng lại có thể đáp ứng khối lượng vận tải lớn nhất.


Vì vậy, chính vận tải biển phát triển đã thúc đẩy thương mại các quốc gia, ngày càng trở lên có hiệu quả. Phát triển vận tải biển thúc đẩy quá trình xuất nhập khẩu hàng hoá, là động lực thúc đẩy phát triển công nghiệp.

Trong sản xuất công nghiệp, chi phí cho vận tải nguyên vật liệu, hàng hoá chiếm tỷ trọng lớn, nhất là khi phải vận chuyển xa từ quốc gia này đến quốc gia khác, thậm chí từ châu lục này tới châu lục khác. Vận tải bằng đường biển hầu như không phải làm đường mà chỉ xây dựng cảng và mua sắm phương tiện vận tải.

Như đã nêu ở trên, với hơn 3.200 km bờ biển, Việt Nam có một tiềm năng về cảng biển hết sức to lớn. Hệ thống cảng biển bao gồm trên 80 cảng biển lớn nhỏ, trong đó có một số cảng đã và đang được nâng cấp và mở rộng như Hải Phòng, Cái Lân, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang, Sài Gòn, Cần Thơ. Khối lượng hàng hoá thông qua cảng biển Việt Nam tăng nhanh chóng. Tốc độ tăng trưởng bình quân là 17%/năm. Các cảng lớn như Hải Phòng, Sài Gòn đạt một mức kỷ lục. Nhưng, nhìn chung các cảng biển vẫn đang ở trong tình trạng kém hiệu quả, thiếu sức cạnh tranh bởi các lý do: quy mô cảng nhỏ bé, thiết bị xếp dỡ lạc hậu, thiếu cảng nước sâu, cảng tàu container, những cảng tổng hợp quan trọng đều nằm sâu trong đất liền như Hải Phòng (30 km), Sài Gòn (90km) luồng lạch hẹp lại bị sa bồi lớn không cho phép các tàu lớn ra vào cảng, mặt bằng chật hẹp, thiếu hệ thống đường bộ, đường sắt nối vào mạng lưới giao thông quốc gia.

Xu thế vận tải hiện nay là sử dụng tàu có trọng tải lớn, áp dụng các công nghệ vận tải tiên tiến, đặc biệt là vận tải đa phương thức. Do vậy, việc xây dựng các cảng nước sâu với trang thiết bị hiện đại, công nghệ quản lý điều hành tiên tiến là yêu cầu bức xúc.

Nhận rõ vai trò quan trọng của hệ thống cảng biển đối với phát triển kinh tế nói chung và phát triển công nghệ nói riêng nên trong 10 năm qua Nhà nước đã tập trung vốn đầu tư cho một số cảng trọng điểm như:

- Cảng Hải Phòng hoàn thành giai đoạn I với công suất 6,2 triệu tấn/năm, cho tàu 10.000 DWT ra vào và dự kiến sẽ hoàn thành giai đoạn II trong kế hoạch 2000 - 2010 với công suất 8 - 8,5 triệu tấn/năm, cho tàu 10.000 tấn ra vào.

- Cảng Cái Lân: Công suất 1,8 - 2,8 triệu tấn/năm, cho tàu đến 40.000 tấn ra vào giai đoạn I (năm 2003) và 16-17 triệu tấn/năm cho tàu 50.000 tấn ra vào giai đoạn II (đến năm 2010 - 2020).

- Cảng Sài Gòn: Công suất 8,5 - 9,5 triệu tấn/ năm cho tàu 25.000 - 35.000 tấn ra vào (giai đoạn II đến năm 2010) và một số cảng khác sẽ được đầu tư cải tạo, mở rộng cơ sở vật chất như cảng Cửa Lò, Quy Nhơn, Nha Trang.

Như vậy, trong thời gian qua chủ yếu mới chỉ tập trung cho các cảng thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc và phía Nam, một số cảng chuyên dùng như bến thứ nhất của cảng tàu Dung Quất (Liên doanh Việt Xô); Cảng Nghi Sơn (xi măng); cảng Cát Lát (xi măng và container) và một số cảng ở khu công nghiệp Gò Dầu, Hiệp Phước…

Có thể nói, chính nhờ có hệ thống giao thông biển mà các trung tâm công nghiệp lớn của đất nước đã hình thành và phát triển như khu vực kinh tế trọng điểm Nam Bộ, Bắc Bộ gắn liền với cụm cảng Sài Gòn và Hải Phòng. Chính nhờ có cảng biển nên đã tạo ra lợi thế cạnh tranh hoặc xuất khẩu nông lâm thuỷ sản chế biến.

Để đáp ứng nhu cầu vận tải biển ngày một tăng cho phát triển kinh tế xã hội đặc biệt là phát triển công nghiệp trong bối cảnh hội nhập, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam đến năm 2010 với 114 cảng (chưa kể các cảng tiềm năng). Tất cả các cảng đều gắn liền với các trung tâm công nghiệp, là đầu mối giao lưu với thế giới trong xuất, nhập khẩu của đất nước.

Trong những năm sắp tới, nền kinh tế phát triển mạnh theo hướng hội nhập quốc tế và khu vực, giao lưu hàng hoá quốc tế và trong nước tăng nhanh, đòi hỏi hệ thống cảng biển cần có những bước tiến mạnh mới đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế - xã hội. Trên cơ sở quy hoạch tổng hợp phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, cần thực hiện tốt công tác quản lý quy hoạch hệ thống cảng biển, tiến hành lập và quy hoạch chi tiết các nhóm cảng quan trọng. Trong đầu tư cảng, cần tạo liên kết cảng với các hệ thống giao thông mặt đất nhằm tạo thuật lợi nhất cho khách hàng qua phương thức vận tải đa phương.

Vai trò vận tải ven biển cũng ngày càng tăng đối với hàng rời thông thường và hàng bách hoá. Đầu tư ngắn hạn cho cảng tại các cảng tổng hợp với mục tiêu cải tiến nâng cao năng suất cảng, hiện đại hoá những thiết bị dẫn luồng. Nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải trong xếp dỡ có hiệu quả khuyến khích các tàu lớn, hiện đại vào cảng Việt Nam.

Đối với các cảng địa phương và cảng do các Bộ quản lý cần lựa chọn những cảng có đủ lượng hàng hoá hoạt động có hiệu quả để nâng cấp nhằm phát huy hiệu quả đầu tư.

Phát huy lợi thế phát triển ngành dầu khí và điện lực
Ngành Dầu khí ngày nay đã trở thành một trong những ngành chủ lực của Việt Nam, là ngành xuất khẩu hàng đầu của đất nước (hơn ba tỷ USD hàng năm), gắn liền với kinh tế biển. Gần như toàn bộ trữ lượng dầu khí của nước ta nằm trong thềm lục địa. Trên phần diện tích thềm lục địa có chiều sâu nước đến 200m, đã phát hiện trữ lượng dầu khoảng 540 triệu tấn và 610 tỷ m3 khí. Trữ lượng tiềm năng dự báo khoảng 900 - 1.200 tỷ m3 dầu và 2.100 - 2.800 tỷ m3 khí. Như vậy, trữ lượng tiềm năng tập trung chủ yếu ở vùng nước sâu và các vùng chồng lấn. Dự báo đến năm 2010, Việt Nam có thể khai thác từ 30 - 32 triệu tấn dầu quy đổi, trong đó dầu thô khai thác khoảng 16 -18 triệu tấn, khí khoảng 11 - 13 tỷ m3. Nhờ có nguồn dầu khí khai thác, chúng ta có thể phát triển công nghiệp điện lực, hoá chất (phân bón và hóa dầu) với quy mô lớn. Các cơ sở công nghiệp này đều gắn liền với các vùng ven biển như khu khí điện đạm Phú Mỹ, Cà Mau; khu lọc hoá dầu Dung Quất, Nghi Sơn. Đặc biệt, nhờ có khai thác công mà các ngành công nghiệp và dịch vụ tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã phát triển nhanh trong thời gian vừa qua.

Trong tương lai, khi các nguồn điện sơ cấp cạn kiện thì việc phát triển phong điện và điện nguyên tử dọc bờ biển sẽ đóng vai trò vô cùng quan trọng trong công nghiệp.

Biển cung cấp ngày càng nhiều và đa dạng các loại nguyên liệu cho công nghiệp chế biến như: cá, tôm, cua, sò, mực, rong, ngọc trai… dưới dạng đánh bắt tự nhiên và nuôi trồng.

Ngành thuỷ sản (chủ yếu là hải sản) trong những năm gần đây đã có tốc độ tăng trưởng nhanh, chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong cơ cấu sản xuất nông nghiệp nước ta. Năm 2002, giá trị sản xuất ngành thủy sản chiếm 17,76% tổng giá trị sản xuất nông nghiệp. Đặc biệt ngành thuỷ sản có giá trị xuất khẩu cao, ước đạt 2.024 triệu USD năm 2002, đứng thứ 3 về xuất khẩu của cả nước sau dầu thô và dệt may. Năm 2002, ngành thuỷ sản đã đánh bắt và trồng được 2,57 triệu tấn, trong đó cung cấp cho công nghiệp chế biến khoảng 600 ngàn tấn. Dự báo, đến năm 2010 ngành thuỷ sản có thể khai thác và nuôi trồng được khoảng 3,5 - 4 triệu tấn, trong đó cung cấp khoảng 1 triệu tấn nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và có thể đại giá trị xuất khẩu từ 4,5 - 5 tỷ USD.

Như vậy, phát triển nuôi trồng và đánh bắt hải sản ở nước ta ngày càng giữ vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế của đất nước nói chung và công nghiệp nói riêng. Ngành công nghiệp chế biến thuỷ sản đã trở thành ngành mũi nhọn đem lại hiệu quả kinh tế cao của ven biển nước ta.

Phát triển kinh tế biển gắn với khai thác khoáng sản khác
Dọc dải bờ biển nước ta có nhiều sa khoáng kim loại, đáng kể nhất là các sa khoáng ilmenit tập trung các vùng biển Hà Tĩnh, Thừa Thiên - Huế, Bình Định, Phú Yên, Ninh Thuận với tổng trữ lượng khoảng 10 triệu tấn. Các khoáng vật đi kèm ilmenit là zircon, monaxit có giá trị kinh tế cao. Những năm gần đây, công tác khai thác đã được phát triển mạnh ở Hà Tĩnh, Thừa Thiên - Huế, Bình Định và Bình Thuận với sản lượng khai thác khoảng 100 ngàn tấn/năm phục vụ cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Dự báo đến năm 2010 có thể khai thác từ 250 - 300 ngàn tấn tinh quặng ilmenit. Đây là nguồn nguyên liệu khá lớn có thể phục vụ cho công nghiệp sản xuất bột TiO2.

Ngoài ilmenit, dọc bờ biển nước ta có nhiều mỏ cát thuỷ tinh với chất lượng tốt, là nguyên liệu cho sản xuất thuỷ tinh, tập trung ở Quảng Ninh, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Đà Nẵng, Bình Định, Khánh Hoà, Bình Thuận… với tổng trữ lượng đã thăm dò trên 300 triệu tấn. Trữ lượng dự báo khoảng trên 700 triệu tấn. Hiện nay nhiều địa phương đang khai thác phục vụ cho các nhà máy sản xuất kính và thuỷ tinh trong nước và xuất khẩu.

Tiềm năng các mỏ quặng ở thềm lục địa nước ta còn khá lớn nhưng do kinh phí và trình độ của chúng ta còn hạn chế chưa có điều kiện tìm kiếm thăm dò vùng ngập nước nên chưa khẳng định được.

Có thể nói, kinh tế biển ngày càng giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế biển đã trở thành động lực thúc đẩy phát triển công nghiệp vì biển là cửa ngõ giao lưu với thế giới, tạo điều kiện cho công tác xuất nhập khẩu hàng hoá thuận lợi với chi phí thấp. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực như hiện nay thì biển ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo năng lực cạnh tranh của quốc gia và của ngành công nghiệp. Ngoài ra, biển còn là nơi cung cấp nguyên liệu phong phú, đa dạng cho công nghiệp chế biến.

Hiệu quả kinh tế biển: Vẫn chỉ là nhặt nhạnh
( Theo Sài Gòn Tiếp Thị )

Theo PGS-TS Nguyễn Chu Hồi, Viện trưởng Viện Kinh tế và quy hoạch thuỷ sản (Bộ Thuỷ sản), năng lực khai thác biển của Việt Nam chỉ bằng 1/7 Hàn Quốc, 1/20 Trung Quốc, 1/94 của Nhật Bản, 1/260 của thế giới. Trong khi Việt Nam có nhiều thuận lợi trong việc phát triển kinh tế biển.

Hoạt động khai thác thuỷ sản ở vùng ven bờ và thềm lục địa, chiếm khoảng 80% lượng thuỷ sản khai thác toàn quốc. Nuôi trồng thuỷ sản nước lợ tiến hành ở vùng ven bờ biển đóng góp gần 90% tổng sản lượng thuỷ sản toàn quốc, đáp ứng gần 40% lượng chất đạm (protein) của cả nước. Chưa kể với một diện tích rừng ngập mặn lớn, theo GS Nguyễn Tác An - chủ tịch Uỷ ban quốc gia chương trình Hải dương học liên chính phủ (IOC) - nếu biết cách khai thác, giá trị của rừng ngập mặn của Việt Nam lên khoảng hơn 100.000 USD/ha/năm.

Ông An cho rằng, giá trị cụ thể của lượng vật chất khai thác từ biển mà con người vẫn cân đong đo đếm như hiện nay là rất nhỏ so với giá trị thực tế của biển. Biết khai thác, nguồn thu nhập có thể lên đến hàng nghìn lần so với những gì mà người dân ven biển nhặt nhạnh hiện nay. Đó chính là lý do tại sao ở gần “bạc” mà bao đời nay vẫn nghèo. Ở những quốc gia khác, trung bình 1km2 biển, giá trị khai thác lên đến 100.000 USD, trong khi con số này ở Việt Nam chỉ là 20.000 USD.

Biển Việt Nam là một trong 10 trung tâm đa dạng sinh học biển của thế giới, là nơi sinh kế trực tiếp của 300 triệu cư dân các nước quanh biển Đông và khoảng 20 triệu dân thuộc 28 tỉnh thành và thành phố ven biển. Biển Đông là khu vực có tuyến đường biển nhộn nhịp thứ 2 trên thế giới.

Kinh tế biển đóng góp 12% GDP và khoảng 50% giá trị xuất khẩu của cả nước. Riêng sản lượng hải sản ven bờ biển khai thác đã chiếm tới 80% tổng sản lượng. Trữ lượng cá toàn vùng biển Việt Nam ước tính khoảng 4,2 triệu tấn, trong đó khoảng 1,7 triệu tấn ở ngoài khơi với ngưỡng khai thác bền vững từ 1,4-1,7 triệu tấn.

Năm 2006, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản ước đạt hơn 3,2 tỉ USD. Tổng sản lượng thuỷ sản ước đạt hơn 3,7 triệu tấn, trong đó sản lượng nuôi trồng chiếm hơn 1,7 triệu tấn. Biển Việt Nam cũng đã cung cấp khoảng 35 loại khoáng sản với quy mô trữ lượng khai thác khác nhau thuộc các nhóm: nhiên liệu, kim loại, vật liệu xây dựng, đá quý, khoáng sản lỏng... Biển cũng là nơi chứa đựng những tiềm năng phát triển ngành công nghiệp dầu khí.

Mục tiêu, đến năm 2020, kinh tế biển đóng góp khoảng 53 - 55% GDP, 55 - 60% kim ngạch xuất khẩu của cả nước, giải quyết tốt các vấn đề xã hội, cải thiện một bước đáng kể đời sống của nhân dân vùng biển và ven biển".
Khai thác bừa bãi...

Ông Bùi Văn Tiếng, Bí thư quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng nói: "Việt Nam không thể phát triển kinh tế biển nếu vẫn còn tư duy theo kiểu sợ biển". Chỉ ở gần bờ, khai thác đơn lẻ những gì có sẵn theo kiểu “tận diệt” biển, môi trường biển ngày càng suy thoái, chắc chắn sự giàu có của tài nguyên biển sẽ không còn. Sự giàu có và đa dạng các nguồn tài nguyên biển là tiền đề phát triển đa ngành (multi-sectoral management), nhưng thực tế biển Việt Nam chủ yếu được quản lý theo ngành (sectoral management). Tình trạng này xảy ra, khi các cơ quan quản lý chưa quy hoạch chi tiết tổng thể, không có tầm nhìn chiến lược đã vội vã cấp phép những dự án đầu tư phát triển kinh tế biển.

Đây chính là mâu thuẫn lợi ích giữa các ngành đang khai thác tài nguyên từ biển. “Không thể phát triển kinh tế biển theo kiểu, sở này thì phát động du lịch sinh thái biển, sở kia lại cấp phép và cổ xuý cho việc đóng tàu biển gây ô nhiễm vùng biển ven bờ”. Ông Nguyễn Chu Hồi nói. Nếu các cơ quan quản lý không sớm áp dụng cơ chế phối hợp liên ngành trong quản lý biển sẽ ảnh hưởng đến mục tiêu tăng trưởng kinh tế biển bền vững.

Với hơn 3.260 ki lô mét bờ biển; 112 cửa sông, lạch; 4.000 đảo lớn, nhỏ và hơn 1 triệu cây số vuông vùng biển. Bên cạnh các giá trị cảnh quan, quanh đảo còn quy tụ các hệ sinh thái quan trọng đối với nguồn lợi hải sản, đối với phát triển nghề cá và du lịch sinh thái biển. Tuy nhiên các đảo của Việt Nam đang được khai thác một cách tự phát, “mạnh ai nấy làm”, “thấy có cái gì thì khai thác cái đó”, hoàn toàn trực quan, thiếu quy hoạch và thiếu cơ sở khoa học.

Ông Trần Đình Thiên, Viện phó Viện Kinh tế Việt Nam cũng cho rằng, việc phát triển manh mún, khai thác tự nhiên, không có tầm nhìn chiến lược đã gây lãng phí lớn trong việc phát triển kinh tế biển.

Giải pháp nào?

Việt Nam không thể tiến ra biển theo lối tư duy nhỏ lẻ, với một hạm đội “thuyền thúng” mà phải chấp nhận đầu tư lớn và khai thác biển cũng phải được xây dựng thành một nghề thật sự, một nền công nghiệp theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. Cần xây dựng một nền khoa học kinh tế biển hiện đại.

Phát triển một nền kinh tế biển hiệu quả bền vững và có khả năng hội nhập quốc tế. Cần có một phương thức quản lý biển tổng hợp đảm bảo được an ninh sinh thái và an sinh xã hội ở vùng biển đảo và ven biển.

Theo ông Hồi, quy hoạch phát triển kinh tế biển là cụ thể, nhưng cần đặt trong tư duy tổng thể phát triển hệ thống đảo và từng vùng biển. Đối với các cụm đảo nhỏ hoang sơ, nên phát triển kinh tế đảo với bảo tồn thiên nhiên, du lịch sinh thái biển đảo. Đối với các cụm đảo lớn, nên xây dựng các trung tâm kinh tế hải đảo toàn diện có bán kính ảnh hưởng rộng ra cùng xung quanh và là những cực tiếp nối quan trọng trong bình đồ tổ chức không gian biển.

Đẩy mạnh phát triển kinh tế biển bằng cách tận dụng nguồn lực và công nghệ hiện đại về khai thác biển từ nước ngoài cũng là ý kiến mà các đại biểu đưa ra tại buổi hội thảo.

Nhiều chuyên gia cho rằng điều quan trọng nhất là cả Nhà nước và người dân buộc phải thay đổi cách tư duy về quản lý và khai thác tài nguyên biển. Tư duy này không có nghĩa là ở bên cạnh biển mà phải đối mặt với biển, phải có bản năng chinh phục biển và chế ngự biển khơi. Có như vậy, mục tiêu “Việt Nam phải là một quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ biển vào năm 2020” của Chính phủ mới có khả năng thành hiện thực.
 

( Tinkinhte.com tổng hợp )

  • Bàn thêm về khoảng cách giàu nghèo ở Việt Nam
  • Quan điểm chiến lược phát triển vùng kinh tế trọng điểm Việt Nam đến 2020
  • Hà Nội cần thêm 500 ha đất xây dựng nhà cho công nhân đến năm 2020
  • Chiến lược việc làm 2011-2020: Cải thiện kết nối cung cầu
  • Bàn các giải pháp phát triển bền vững cây càphê
  • Năm 2020 sẽ có 15 đơn vị kiểm toán nhà nước khu vực
  • Phát triển kinh tế biển đảo Việt Nam: Thực trạng và triển vọng
  • Hải Phòng phấn đấu trở thành thành phố công nghiệp hiện đại
  • Liên kết để khơi dậy tiềm năng các khu công nghiệp
  • Kon Tum khai thác tiềm năng, lợi thế
  • Cần 162,5 nghìn tỷ đồng phát triển kinh tế đảo đến 2020
  • Quy hoạch phát triển KT-XH Hà Nội đến năm 2020 Định hướng tương lai
  • Triển khai Chương trình xử lý chất thải rắn từ 2011
  • Chiến lược và quy hoạch phát triển Hà Nội: Cần xác định điểm nhấn, động lực
  • Tìm mô hình tăng trưởng mới