Trong những năm gần đây, giá trị xuất khẩu từ cà phê đã phục hồi lại sau đợt sụt giảm mạnh từ năm 2000 đến 2004. Kim ngạch xuất khẩu cà phê trong niên vụ 2007/08 ước đạt 15 tỷ USD. Trong khi hầu hết các nước sản xuất cà phê đã mở rộng nền kinh tế của họ và giảm sự phụ thuộc vào ngành hàng cà phê như một ngành hàng chính thu ngoại tệ trong suốt những thập kỷ qua thì rất nhiều nước vẫn còn chịu ảnh hưởng lớn của biến động giá cả. Dễ nhận thấy ở một số nước, cà phê vẫn chiếm một thị phần rất lớn trong nguồn thu từ xuất khẩu: Burundi (52%), Ethiopia (31%), Honduras (23%), Uganda (17%), Nicaragua (17%) và Guatemala (12%). Thậm chí các nước sản xuất ít phụ thuộc vào cà phê hơn cũng phải chịu ảnh hưởng do các mặt hàng thiết yếu như nông sản và khoáng sản mà họ xuất khẩu đều bị giảm giá.
Ngoài sự giảm kim ngạch xuất khẩu do việc giảm giá của các mặt hàng thiết yếu, thì dòng tiền đi vào và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng sẽ bị ảnh hưởng rất mạnh. Cùng lúc đó, vẫn chưa có bằng chứng nào cho thấy rằng khủng hoảng sẽ tự động chuyển thành sự suy giảm của các quỹ hỗ trợ và quỹ cho vay của các nước phát triển. Cuộc khủng hoảng kinh tế chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến các nước đang phát triển nhưng ảnh hưởng này sẽ hết sức đa dạng, nó sẽ phụ thuộc vào khả năng của chính phủ trong việc làm cho các chính sách kinh tế của họ thích ứng với môi trường mới.
Hầu hết các nền kinh tế phát triển đều không chịu gánh nặng của các vấn đề cơ cấu sâu xa, như số nợ vượt quá cao có thể gây cản trở sự phát triển trong một vài năm tới. Mặc dù năm 2009 sẽ là một năm khó khăn cho các nước đang phát triển nhưng những nước này với khoản tiết kiệm tương đối cao và nợ không nhiều sẽ có thể hồi phục nhanh chóng. Theo nhiều đánh giá về tài chính và đối ngoại thì nền kinh tế của các nước đang phát triển lại đang ở trong tình trạng tốt hơn các nước phát triển.
Trong giao dịch cà phê quốc tế, nhiều trở ngại sẽ xuất hiện do môi trường kinh tế thay đổi, các doanh nghiệp sẽ trở nên cẩn trọng và thắt chặt tín dụng hơn. Tuy nhiên các chính phủ đang đưa ra các gói cứu trợ để đưa tình hình bình ổn trở lại, bước đầu kế hoạch này đảm bảo thành công và có thế mất một khoảng thời gian trước khi chúng ta lấy lại được mức thanh khoản trước đây.
Tóm lại, những phân tích nói trên về ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế bắt đầu từ tháng 9 năm 2008 chỉ là những nhận định ban đầu và cần phải được nghiên cứu thêm và cẩn trọng hơn nữa. Toàn cảnh nền kinh tế thế giới vẫn khó đoán biết và sẽ còn nhiều bất ổn. Tuy nhiên, những luận cứ gần đây cho thấy tình hình hiện nay chưa có ảnh hưởng nào đáng kể lên lượng tiêu thụ cà phê thế giới. Về sản xuất, ảnh hưởng với các nước có sự khác nhau đáng kể. Trong năm 2009, ngành cà phê thế giới sẽ có xu hướng ổn định về nhu cầu và tương đối khan hiếm về nguồn cung. Nhưng cho dù thế nào thì điều cần thiết nhất là giá cà phê đạt được đến mức tương thích mới các nguồn đầu tư bỏ ra cho sản xuất trong tương lai.
Ông Nguyễn Đình Bích, chuyên gia thương mại của Viện Nghiên cứu thương mại, Bộ Công Thương, nói thông tư mới của bộ này có điều khoản quy định các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (FDI) được cấp phép quyền xuất khẩu chỉ được trực tiếp mua hàng hóa của thương nhân Việt Nam là nhằm chấn chỉnh lại hệ thống thu mua trong nước theo hướng lành mạnh hơn.
Hầu hết những người nông dân trồng cà phê ở Việt Nam chưa bao giờ nghe tới cà phê “skinny latte”, nhưng có thể nói vanh vách về giá cà phê nhân, thứ đã đi vào giấc ngủ của họ.
Hiệp hội điều Việt Nam (Vinacas) vừa tổ chức Hội nghị triển khai công tác sản xuất- kinh doanh điều quý 2/2013. Tại Hội nghị, ông Nguyễn Đức Thanh, Chủ tịch Vinacas khuyến cáo về những rủi ro có thể gặp trong thời gian tới.
Giới quan sát quốc tế dự báo, sản lượng cà phê của Việt Nam, nước sản xuất cà phê robusta lớn nhất thế giới, có thể giảm xuống mức thấp nhất 8 năm trong niên vụ này.
Nhiều hộ trồng cà phê tại khu vực Tây Nguyên đang hạn chế bán hàng ra trước Tết Nguyên đán với hy vọng giá cà phê sẽ tăng sau Tết. Sản lượng cà phê niên vụ này của Việt Nam có thể không cao như niên vụ trước.
Lượng cà phê thế giới xuất khẩu ước tính đạt 7,79 triệu bao trong tháng 1 năm 2009, thấp hơn một chút so với mức 8 triệu bao cùng kỳ năm trước. Xuất khẩu trong 4 tháng đầu niên vụ 2008/09 (Từ tháng 10/08- tháng 01/2009) đã tăng từ 29,8 triệu bao cùng kỳ niên vụ trước lên 30,9 triệu bao, tăng 3,6 %.
Giá cà phê thế giới tăng mạnh nhờ hoạt động mua bù thiếu của các nhà kinh doanh, giá dầu thô tăng mạnh và đồng USD giảm giá so với một số đồng tiền mạnh khác, cùng với dự đoán nguồn cung cà phê từ Việt Nam và Côlômbia sẽ giảm.
Năm 2009, mục tiêu xuất khẩu của ngành chè là 117 ngàn tấn, với kim ngạch khoảng 167 triệu USD, tăng 13,6% so với năm 2008.
Xuất khẩu chè của Ấn Độ năm 2008 đạt 196.000 tấn, tăng 9,7% so với cùng kỳ năm ngoái trong đó vùng phía Bắc Ấn Độ xuất khẩu 108.200 tấn (tăng 5.000 tấn) và vùng phía Nam Ấn Độ xuất 87.800 tấn (tăng 11.800 tấn).
Một quan chức của ngành cà phê của Ấn Độ cho biết, Hội đồng Cà phê Ấn Độ ước tính, sản lượng cà phê Arabica của nước này trong niên vụ 2008/09 có thể sẽ giảm 11% so với dự báo trước đó.
Theo tin từ Hiệp hội Cà phê, ca cao Việt Nam, mặc dù giá cà phê trên thị trường đang có xu hướng giảm, nhưng nhu cầu tiêu thụ vẫn còn. Quan trọng nhất hiện nay Việt Nam cần điều tiết lượng xuất ra một cách cân đối, vì nếu xuất quá nhiều, giá sẽ xuống thấp nữa. Dự báo, giá cà phê năm nay trên thế giới vẫn giữ ở mức cao và chắc chắn sẽ ở mức trên giá thành sản xuất.
Đến nay, cà phê vẫn là một trong những mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam, tạo nguồn thu ngoại tệ, việc làm và góp phần xóa đói giảm nghèo trên diện rộng.
Trong năm 2008, chè của nước ta được xuất khẩu sang 66 thị trường và vùng lãnh thổ. Pakistan vẫn là thị trường nhập khẩu chè lớn nhất của nước ta, với khối lượng là 27 nghìn tấn, tăng 23% so với năm 2007.
“6 năm qua, chúng tôi phải vật lộn với khủng hoảng vận tải biển, kinh tế suy thoái, những khó khăn do căng thẳng tại Biển đông… Thực sự chúng tôi sắp hết hơi rồi!” - ông Vũ Đức Then - Phó Chủ tịch Hội vận tải biển Diêm Điền - Thái Bình bày tỏ.
Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam (VPA) cho biết khối lượng tiêu xuất khẩu tháng 7 ước đạt 9.000 tấn, với giá trị đạt 74 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu tiêu 7 tháng đầu năm 2014 lên 119.000 tấn với giá trị 862 triệu USD, tăng gần 29% về khối lượng và tăng 42% về giá trị so với cùng kỳ năm 2013.
Là "công xưởng của thế giới" lâu nay song chi phí đắt lên, cộng với những rủi ro nội tại, Trung Quốc mất dần sự hấp dẫn trong mắt nhà đầu tư quốc tế.
Từ đầu năm đến nay, nhiều doanh nghiệp ngành dệt may, sản xuất xơ, sợi nước ngoài (doanh nghiệp FDI) tìm đến xây dựng nhà máy sản xuất ở Việt Nam với quy mô vốn đầu tư lớn.
EVN lý giải nguyên nhân vẫn phải mua điện từ phía Trung Quốc sau những ý kiến trái chiều của các chuyên gia và dư luận. Để đảm bảo cung cấp điện ổn định và đảm bảo chất lượng điện năng cho các tỉnh Tây Bắc, EVN vẫn phải duy trì mua điện Trung Quốc với một sản lượng tối thiểu.
Nhu cầu sản phẩm công nghiệp có xu hướng tăng trở lại trong khi tồn kho vẫn tiếp tục ở mức cao, giá trị gia tăng thấp là những gam màu chính trong bức tranh sản xuất công nghiệp nửa đầu năm 2014.
Với những người chủ ý mua xe ga cao cấp thì yếu tố đem ra so sánh giữa những sản phẩm của các hãng khác nhau không phải là giá cả, mà là thỏa mãn nhu cầu.
Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 39/2013/QĐ-TTg ngày 27/6/2013 về việc sửa đổi, bổ sung Khoản 1 Điều 2 Quy chế hoạt động của Khu kinh tế Đình Vũ - Cát Hải, thành phố Hải Phòng ban hành kèm theo Quyết định số 69/2011/QĐ-TTg ngày 13/12/2011.
“Thông minh như thế mà tại sao làm những chuyện như thế, nói thực là tôi không hiểu”, Phó chủ Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) Nguyễn Hữu Dũng nói tại cuộc gặp gỡ báo chí sáng 5/7.
Mặc dù ảnh hưởng của cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu đã làm cho sức mua tại hầu hết các thị trường lớn của ngành dệt may như Mỹ, EU, Nhật... sụt giảm nghiêm trọng, nhưng ngành dệt may VN đã nỗ lực cạnh tranh với các nước XK để giành lấy phần thị trường đang bị co hẹp, đồng thời đẩy mạnh việc chiếm lĩnh thị trường nội địa. Ông Lê Quốc Ân - Chủ tịch Hiệp hội Dệt May VN đã có cuộc trao đổi với báo giới xung quanh nội dung này.
"Năm 2010, chúng tôi sẽ cố gắng phấn đấu tăng trưởng giá trị xuất khẩu sản phẩm gỗ từ 8-10% so với năm nay. Hiệp hội sẽ đăng ký với Bộ Công Thương kim ngạch khoảng 3 tỷ USD", Tổng thư ký Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, ông Nguyễn Tôn Quyền, nói với VnEconomy ngày hôm qua.
Chiến lược phấn đấu đến năm 2010, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ (TCMN) phải đạt 1,5 tỷ USD là có khả năng thực hiện được. Tuy nhiên, theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế để đạt được chỉ tiêu này, nhất là trong bối cảnh khó khăn như hiện nay thì thời gian tới cần có sự liên kết giữa các cơ quan quản lý nhằm kết hợp hài hòa và tối ưu hóa các nguồn lực cho phát triển ngành hàng này. Trong đó, các DN rất cần sự hỗ trợ kịp thời từ Chính phủ thông qua các chương trình bảo tồn làng nghề, khuyến công và xây dựng hạ tầng cơ sở.
Xác định rõ tầm quan trọng của ngành công nghiệp ô tô trong quá trình phát triển của đất nước, từ những năm đầu của thập niên 90, Việt Nam đã đưa ra nhiều khuyến khích nhằm thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia vào ngành công nghiệp này. Ngày 5/10/2004, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 177/2004/QĐ-TTg “Về việc phê duyệt quy hoạch phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn đến 2020”. Tuy nhiên, sau gần 5 năm triển khai thực hiện, nhiều chỉ tiêu của quy hoạch đã không thực hiện được hoặc hầu như chắc chắn không thực hiện được, nhất là những chỉ tiêu đến năm 2010. Những chỉ tiêu đến năm 2020 cũng rất khó có thể thực hiện được. Để làm rõ vấn đề này cần phải tính các nguyên nhân, thực trạng phát triển và đưa ra các giải pháp để bảo đảm thực hiện được các mục tiêu phát triển của ngành ô tô ở Việt Nam.
Trong 3 tháng qua, giá nhiều loại vật liệu xây dựng (VLXD) đã tăng liên tục. Giới kinh doanh dự báo, khả năng giá nhiều loại VLXD còn tăng. Thông tin này đã làm cho nhiều người có kế hoạch xây dựng nhà phải tính toán lại...
Việc chọn Việt Nam làm cứ điểm sản xuất để xuất khẩu ra toàn thế giới của các tập đoàn như Samsung, Canon, Intel... là tín hiệu cho thấy cơ hội để phát triển ngành công nghiệp phụ trợ của Việt Nam đã đến.
Cách tạo dựng công nghiệp ô tô dựa quá nặng vào các nhà đầu tư nước ngoài đã khiến ngành ô tô của VN phát triển khá ì ạch, tạo ra những khó khăn cho các doanh nghiệp VN khi tham gia lĩnh vực này. Tinkinhte xin đăng lại bài viết của chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan trên SGGP về vấn đề này.
Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã ảnh hưởng tới nền kinh tế cả nước nói chung và thu hút đầu tư vào các khu kinh tế (KKT) miền trung nói riêng. Nhiều nhà đầu tư đã xin giãn tiến độ triển khai dự án. Các KKT miền trung cần điều chỉnh, lựa chọn những dự án và giải pháp hợp lý để thu hút đầu tư, phát triển mô hình KKT một cách có hiệu quả.
Được đánh giá là một ngành hàng mà Việt Nam có nhiều thế mạnh, nhưng ngành gốm sứ Việt Nam đang có sự phân cực rất rõ. Những đơn vị sản xuất công nghiệp - đa phần là gốm sứ xây dựng - đã và đang phát triển mạnh mẽ, trong khi dòng gốm thủ công mỹ nghệ đang gặp khó khăn rất lớn.
Tăng trưởng của Tổng công ty cổ phần Bia - Rượu – Nước giải khát Sài Gòn (Sabeco) là 38,3%; của Tổng công ty cổ phần Bia - Rượu – Nước giải khát Hà Nội (Habeco) là 28,3% và của toàn ngành nói chung là 11,8% trong năm 2008 đã cho thấy sức hấp dẫn của những ngành hàng này, đặc biệt khi mà nhiều ngành hàng khác đang phải vật lộn để có đơn hàng.
Theo ASX Alphaliner, đội tàu của 100 hãng tàu vận tải hàng đầu trên thế giới hiện gồm khoảng 6,000 tàu đang hoạt động, trong đó có khoảng 5,000 tàu là các tàu container.