Theo dự báo, những tháng cuối năm 2009, thị trường xuất khẩu chè sẽ sôi động trở lại. Nhưng có một trở ngại đối với ngành chè hiện nay là vùng nguyên liệu đang thiếu trầm trọng và chất lượng chè nguyên liệu không phải lúc nào cũng bảo đảm.
Thiếu nguyên liệu
Theo thông tin từ Hiệp hội Chè Việt Nam, trong sáu tháng qua, cả nước xuất khẩu chè ước đạt 50 triệu USD. Thị trường chè tiếp tục ổn định về giá cả và số lượng, nhất là những thị trường lớn như Mỹ, EU và Nga. Ðể có được kim ngạch xuất khẩu 50 triệu USD, ngành chè đã nỗ lực nâng cao chất lượng và bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm. So với cùng kỳ năm ngoái, xuất khẩu chè đã tăng hơn 17% về lượng và 13% về giá trị. Hiện chè xuất khẩu đang có giá khoảng 1.248 USD/tấn, giảm 10 USD/tấn so cùng kỳ 2008. Năm 2009, ngành chè đặt mục tiêu xuất khẩu 117 nghìn tấn, kim ngạch khoảng 167 triệu USD. Tuy nhiên, theo Chủ tịch Hiệp hội Chè Việt Nam Nguyễn Kim Phong, mục tiêu đó khó có thể đạt được vì nguyên nhân cơ bản là thiếu nguyên liệu, mặc dù thị trường xuất khẩu đang sôi động trở lại.
Tình trạng thiếu nguyên liệu diễn ra tại tất cả các vùng chè lớn như Thái Nguyên, Phú Thọ, Yên Bái. Các cơ sở chế biến nhỏ mọc lên quá nhiều trong cùng một thời điểm mà vùng nguyên liệu chè thì có hạn. Theo Hiệp hội Chè Việt Nam, thì tổng công suất các cơ sở chế biến chè cả nước hiện tại đã gấp hơn hai lần khả năng cung ứng chè búp tươi do nông dân sản xuất ra. Cụ thể ở Phú Thọ, hiện toàn tỉnh có 63 cơ sở chế biến chè với công suất 1 tấn búp tươi/cơ sở/ngày, trong khi đó còn cộng thêm cả hàng nghìn "nhà máy" nhỏ sơ chế chè của các hộ dân mọc lên quanh đó. Tất cả các cơ sở chế biến nhỏ này cạnh tranh nguyên liệu khốc liệt với các cơ sở chế biến lớn, khiến tình trạng tranh mua, tranh bán chè nguyên liệu diễn ra gay gắt.
Một nguyên nhân nữa dẫn đến việc các doanh nghiệp đều cùng thiếu nguyên liệu trong thời điểm chính vụ là cây chè bị khai thác quá nhiều mà ít được đầu tư, chăm sóc nên cho sản lượng thấp và chất lượng không cao.
Tại Yên Bái - một trong những "vựa chè" của miền bắc, mặc dù đang chính vụ, hiện nhiều nhà máy chế biến chè hoạt động không hết công suất. Có cơ sở chế biến "đắp chiếu" chờ nguyên liệu. Trong khi đó, tại các huyện Trấn Yên, Yên Bình, Văn Yên, Văn Chấn, hàng chục ha chè dù đã được quy hoạch bài bản nhưng lại không hề được đầu tư. Người dân không mặn mà đầu tư do thời tiết, do giá thu mua bấp bênh, còn các doanh nghiệp cũng ngại đầu tư vì thiếu vốn, hoặc không chắc người dân có bán chè cho mình. Ðã có tình trạng doanh nghiệp đầu tư vốn vào xây dựng vùng chè, nhưng đến khi thu hoạch thì các cơ sở chế biến nhỏ nhảy vào "làm giá". Mặc dù Chính phủ đã có Quyết định 80 về việc ký kết hợp đồng bán chè búp tươi, nhưng thực tế, người dân thường phá hợp đồng bán nguyên liệu khi có đơn vị trả giá cao hơn. Các cơ sở chế biến nhỏ, thay vì đầu tư cho người dân trồng chè vốn, giống, kỹ thuật, đã chọn giải pháp "đầu tư qua giá"... Vì vậy, người dân luôn trồng chè trong tình trạng "ăn xổi". Vùng nguyên liệu chè phát triển không bền vững. Không chỉ thiếu nguyên liệu, việc "ăn xổi" còn làm chất lượng chè sụt giảm đáng kể, nguồn chè sơ chế chất lượng cao ngày càng ít. Trên thị trường chè thế giới, giá chè của Việt Nam chỉ bằng khoảng 70% giá chè cùng loại của nhiều nước.
Quy hoạch vùng nguyên liệu
Chủ tịch Hiệp hội Chè Việt Nam Nguyễn Kim Phong khẳng định, không thể giải quyết tình trạng thiếu nguyên liệu chè nếu không quy hoạch bài bản vùng nguyên liệu. Ðây là yếu tố quyết định để ngành chè Việt Nam phát triển. Phó Tổng Giám đốc Tổng Công ty chè Việt Nam Nguyễn Hữu Tài cho rằng, cần quy hoạch vùng nguyên liệu cho từng cơ sở chế biến; đồng thời phải có sự ràng buộc đối với các cơ sở này. Nếu không có vùng nguyên liệu cụ thể, các địa phương cứ cấp giấy phép đầu tư xây dựng nhà máy chế biến, tạo cơ hội để các doanh nghiệp cạnh tranh nguyên liệu thiếu lành mạnh. Mặc dù Luật Doanh nghiệp, Luật Ðầu tư không nêu những điều kiện cụ thể phải có vùng nguyên liệu mới được xây dựng nhà máy, nhưng đây là đòi hỏi thực tế, bảo đảm cho ngành chè phát triển bền vững. Chỉ khi vùng nguyên liệu được quy hoạch bài bản, cơ sở chế biến gắn với vùng nguyên liệu, gắn với người trồng chè, thì mới tạo ra hiệu quả lâu dài. Ngoài ra, chính quyền địa phương phải tổ chức rà soát lại vùng nguyên liệu của từng cơ sở chế biến, phân định ranh giới cụ thể cho từng doanh nghiệp đến từng hộ dân. Yêu cầu các doanh nghiệp trực tiếp ký hợp đồng với từng hộ nông dân theo Quyết định số 80/2002/QÐ- TTg của Thủ tướng Chính phủ về đầu tư và tiêu thụ nông sản cho nông dân. Doanh nghiệp nào không thực hiện đúng thì rút giấy phép đầu tư. Hiệp hội chè thì có thể tập trung chỉ đạo điểm ở một địa phương cụ thể về việc tiến hành thực hiện mỗi nhà máy chế biến chè có một vùng nguyên liệu cụ thể. Sau đó nhân rộng ra toàn ngành.
Ðể có nguồn nguyên liệu ổn định về số lượng và chất lượng, các doanh nghiệp phải đầu tư cho nông dân một cách bài bản. Nếu không đủ điều kiện đầu tư vật chất thì doanh nghiệp phải đầu tư về kỹ thuật, công nghệ, cạnh tranh thông qua trình độ, công nghệ, năng lực tài chính để giành thị phần tiêu thụ, chứ không thể cạnh tranh về giá như hiện nay.
Theo chính sách phát triển ngành chè đến năm 2010, diện tích trồng chè của cả nước sẽ là 120 nghìn ha. Với năng suất bình quân bảy tấn/ha, dự kiến sản lượng chè tươi đạt 840 nghìn tấn/năm và sản lượng chè thô đạt 200 nghìn tấn/năm. Ðến năm 2020, diện tích trồng chè của Việt Nam sẽ là 140 nghìn ha, sản lượng chè thô dự kiến đạt 1,260 triệu tấn và chè khô đạt mức 300 nghìn tấn. Ðể đạt mục tiêu này, ngoài việc quy hoạch đồng bộ, bài bản vùng nguyên liệu, các doanh nghiệp chè cần củng cố, giữ vững các thị trường chủ lực như Pakistan, Ðài Loan (Trung Quốc) Iraq, Nga, Nhật Bản, Trung Quốc, tăng cường xuất khẩu vào các thị trường tiềm năng: Philippines, Syria, Iran, Mexico, Lào, Chile.
Tăng diện tích trồng chè và tăng năng suất, mở rộng thị trường xuất khẩu theo mục tiêu trên có thể hoàn toàn không khó. Nhưng vấn đề đặt ra là phải chú trọng khâu quy hoạch vùng nguyên liệu, bảo đảm cân đối giữa các cơ sở chế biến so với vùng nguyên liệu. Có như thế mới tránh được tình trạng thị trường xuất khẩu chè đang sôi động mà chúng ta lại thiếu chè nguyên liệu. Khi có vùng chè nguyên liệu ổn định, cây chè sẽ phát huy cao hơn nữa vai trò là cây xóa đói, giảm nghèo, làm giàu cho các hộ nông dân.
(Theo HẢI PHƯƠNG và TRẦN TUYẾT // Báo Nhân dân điện tử)
Ông Nguyễn Đình Bích, chuyên gia thương mại của Viện Nghiên cứu thương mại, Bộ Công Thương, nói thông tư mới của bộ này có điều khoản quy định các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (FDI) được cấp phép quyền xuất khẩu chỉ được trực tiếp mua hàng hóa của thương nhân Việt Nam là nhằm chấn chỉnh lại hệ thống thu mua trong nước theo hướng lành mạnh hơn.
Hầu hết những người nông dân trồng cà phê ở Việt Nam chưa bao giờ nghe tới cà phê “skinny latte”, nhưng có thể nói vanh vách về giá cà phê nhân, thứ đã đi vào giấc ngủ của họ.
Hiệp hội điều Việt Nam (Vinacas) vừa tổ chức Hội nghị triển khai công tác sản xuất- kinh doanh điều quý 2/2013. Tại Hội nghị, ông Nguyễn Đức Thanh, Chủ tịch Vinacas khuyến cáo về những rủi ro có thể gặp trong thời gian tới.
Giới quan sát quốc tế dự báo, sản lượng cà phê của Việt Nam, nước sản xuất cà phê robusta lớn nhất thế giới, có thể giảm xuống mức thấp nhất 8 năm trong niên vụ này.
Nhiều hộ trồng cà phê tại khu vực Tây Nguyên đang hạn chế bán hàng ra trước Tết Nguyên đán với hy vọng giá cà phê sẽ tăng sau Tết. Sản lượng cà phê niên vụ này của Việt Nam có thể không cao như niên vụ trước.
Theo số liệu thống kê, xuất khẩu cà phê robusta của Indonesia ở các khu vực trồng chủ chốt (tỉnh Lampung, Bangkulu và Nam Sumatra) đã tăng 35,36% trong tháng 8/09 lên 46.106,18 tấn.
Một quan chức của Uỷ ban Chè Ấn Độ cho biết, xuất khẩu chè của nước này trong 7 tháng đầu năm nay đạt 94 triệu kg, giảm 14% so với 109,3 triệu kg cùng kỳ năm 2008.
Theo Bộ Nông nghiệp Indonesia, sản lượng cà phê của nước này trong năm 2010 dự báo sẽ tăng 1,4% so với năm trước lên 699.000 tấn. Nguyên nhân sản lượng tăng là do diện tích trồng cà phê của nước này năm 2010 đã tăng lên 1,34 triệu ha, từ 1,31 triệu ha trong năm nay.
Uỷ ban Cà phê và Ca cao Quốc gia Cameroon cho biết, sản lượng ca cao có thể xuất khẩu của nước này tăng 9,4% trong niên vụ 2008/09 nhờ năng suất tăng.
Xuất khẩu ca cao từ đảo Sulawesi của Indonesia – khu vực trồng ca cao lớn nhất của nước này – tăng 60% trong tháng 8 do nông dân bán hàng trong kho dự trữ để hưởng lợi từ việc giá tăng mạnh và gây quỹ trước lễ hội Hồi giáo.
Hiệp hội Chè Việt Nam cho biết, năm 2009, ngành chè phấn đấu xuất khẩu 117.000 tấn, với tổng kim ngạch đạt khoảng 167 triệu USD. Sản phẩm chè Việt Nam hiện đã có mặt trên 110 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Theo số liệu của Hội đồng Cà phê Tươi Braxin, xuất khẩu cà phê tươi của nước này trong tháng 8/09 đạt 2,21 triệu bao loại 60kg, tăng 16% so với 1,90 triệu bao cùng kỳ năm trước.
“6 năm qua, chúng tôi phải vật lộn với khủng hoảng vận tải biển, kinh tế suy thoái, những khó khăn do căng thẳng tại Biển đông… Thực sự chúng tôi sắp hết hơi rồi!” - ông Vũ Đức Then - Phó Chủ tịch Hội vận tải biển Diêm Điền - Thái Bình bày tỏ.
Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam (VPA) cho biết khối lượng tiêu xuất khẩu tháng 7 ước đạt 9.000 tấn, với giá trị đạt 74 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu tiêu 7 tháng đầu năm 2014 lên 119.000 tấn với giá trị 862 triệu USD, tăng gần 29% về khối lượng và tăng 42% về giá trị so với cùng kỳ năm 2013.
Là "công xưởng của thế giới" lâu nay song chi phí đắt lên, cộng với những rủi ro nội tại, Trung Quốc mất dần sự hấp dẫn trong mắt nhà đầu tư quốc tế.
Từ đầu năm đến nay, nhiều doanh nghiệp ngành dệt may, sản xuất xơ, sợi nước ngoài (doanh nghiệp FDI) tìm đến xây dựng nhà máy sản xuất ở Việt Nam với quy mô vốn đầu tư lớn.
EVN lý giải nguyên nhân vẫn phải mua điện từ phía Trung Quốc sau những ý kiến trái chiều của các chuyên gia và dư luận. Để đảm bảo cung cấp điện ổn định và đảm bảo chất lượng điện năng cho các tỉnh Tây Bắc, EVN vẫn phải duy trì mua điện Trung Quốc với một sản lượng tối thiểu.
Nhu cầu sản phẩm công nghiệp có xu hướng tăng trở lại trong khi tồn kho vẫn tiếp tục ở mức cao, giá trị gia tăng thấp là những gam màu chính trong bức tranh sản xuất công nghiệp nửa đầu năm 2014.
Với những người chủ ý mua xe ga cao cấp thì yếu tố đem ra so sánh giữa những sản phẩm của các hãng khác nhau không phải là giá cả, mà là thỏa mãn nhu cầu.
Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 39/2013/QĐ-TTg ngày 27/6/2013 về việc sửa đổi, bổ sung Khoản 1 Điều 2 Quy chế hoạt động của Khu kinh tế Đình Vũ - Cát Hải, thành phố Hải Phòng ban hành kèm theo Quyết định số 69/2011/QĐ-TTg ngày 13/12/2011.
“Thông minh như thế mà tại sao làm những chuyện như thế, nói thực là tôi không hiểu”, Phó chủ Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) Nguyễn Hữu Dũng nói tại cuộc gặp gỡ báo chí sáng 5/7.
Mặc dù ảnh hưởng của cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu đã làm cho sức mua tại hầu hết các thị trường lớn của ngành dệt may như Mỹ, EU, Nhật... sụt giảm nghiêm trọng, nhưng ngành dệt may VN đã nỗ lực cạnh tranh với các nước XK để giành lấy phần thị trường đang bị co hẹp, đồng thời đẩy mạnh việc chiếm lĩnh thị trường nội địa. Ông Lê Quốc Ân - Chủ tịch Hiệp hội Dệt May VN đã có cuộc trao đổi với báo giới xung quanh nội dung này.
"Năm 2010, chúng tôi sẽ cố gắng phấn đấu tăng trưởng giá trị xuất khẩu sản phẩm gỗ từ 8-10% so với năm nay. Hiệp hội sẽ đăng ký với Bộ Công Thương kim ngạch khoảng 3 tỷ USD", Tổng thư ký Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, ông Nguyễn Tôn Quyền, nói với VnEconomy ngày hôm qua.
Chiến lược phấn đấu đến năm 2010, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ (TCMN) phải đạt 1,5 tỷ USD là có khả năng thực hiện được. Tuy nhiên, theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế để đạt được chỉ tiêu này, nhất là trong bối cảnh khó khăn như hiện nay thì thời gian tới cần có sự liên kết giữa các cơ quan quản lý nhằm kết hợp hài hòa và tối ưu hóa các nguồn lực cho phát triển ngành hàng này. Trong đó, các DN rất cần sự hỗ trợ kịp thời từ Chính phủ thông qua các chương trình bảo tồn làng nghề, khuyến công và xây dựng hạ tầng cơ sở.
Xác định rõ tầm quan trọng của ngành công nghiệp ô tô trong quá trình phát triển của đất nước, từ những năm đầu của thập niên 90, Việt Nam đã đưa ra nhiều khuyến khích nhằm thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia vào ngành công nghiệp này. Ngày 5/10/2004, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 177/2004/QĐ-TTg “Về việc phê duyệt quy hoạch phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn đến 2020”. Tuy nhiên, sau gần 5 năm triển khai thực hiện, nhiều chỉ tiêu của quy hoạch đã không thực hiện được hoặc hầu như chắc chắn không thực hiện được, nhất là những chỉ tiêu đến năm 2010. Những chỉ tiêu đến năm 2020 cũng rất khó có thể thực hiện được. Để làm rõ vấn đề này cần phải tính các nguyên nhân, thực trạng phát triển và đưa ra các giải pháp để bảo đảm thực hiện được các mục tiêu phát triển của ngành ô tô ở Việt Nam.
Trong 3 tháng qua, giá nhiều loại vật liệu xây dựng (VLXD) đã tăng liên tục. Giới kinh doanh dự báo, khả năng giá nhiều loại VLXD còn tăng. Thông tin này đã làm cho nhiều người có kế hoạch xây dựng nhà phải tính toán lại...
Việc chọn Việt Nam làm cứ điểm sản xuất để xuất khẩu ra toàn thế giới của các tập đoàn như Samsung, Canon, Intel... là tín hiệu cho thấy cơ hội để phát triển ngành công nghiệp phụ trợ của Việt Nam đã đến.
Cách tạo dựng công nghiệp ô tô dựa quá nặng vào các nhà đầu tư nước ngoài đã khiến ngành ô tô của VN phát triển khá ì ạch, tạo ra những khó khăn cho các doanh nghiệp VN khi tham gia lĩnh vực này. Tinkinhte xin đăng lại bài viết của chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan trên SGGP về vấn đề này.
Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã ảnh hưởng tới nền kinh tế cả nước nói chung và thu hút đầu tư vào các khu kinh tế (KKT) miền trung nói riêng. Nhiều nhà đầu tư đã xin giãn tiến độ triển khai dự án. Các KKT miền trung cần điều chỉnh, lựa chọn những dự án và giải pháp hợp lý để thu hút đầu tư, phát triển mô hình KKT một cách có hiệu quả.
Được đánh giá là một ngành hàng mà Việt Nam có nhiều thế mạnh, nhưng ngành gốm sứ Việt Nam đang có sự phân cực rất rõ. Những đơn vị sản xuất công nghiệp - đa phần là gốm sứ xây dựng - đã và đang phát triển mạnh mẽ, trong khi dòng gốm thủ công mỹ nghệ đang gặp khó khăn rất lớn.
Tăng trưởng của Tổng công ty cổ phần Bia - Rượu – Nước giải khát Sài Gòn (Sabeco) là 38,3%; của Tổng công ty cổ phần Bia - Rượu – Nước giải khát Hà Nội (Habeco) là 28,3% và của toàn ngành nói chung là 11,8% trong năm 2008 đã cho thấy sức hấp dẫn của những ngành hàng này, đặc biệt khi mà nhiều ngành hàng khác đang phải vật lộn để có đơn hàng.
Theo ASX Alphaliner, đội tàu của 100 hãng tàu vận tải hàng đầu trên thế giới hiện gồm khoảng 6,000 tàu đang hoạt động, trong đó có khoảng 5,000 tàu là các tàu container.