Tổng giám đốc Vinashin Trương Văn Tuyến. (Ảnh: Internet)
Vừa hoàn thành nhiệm vụ Tổng Giám đốc Tập đoàn Dầu khí quốc gia kiêm Trưởng ban quản lý dự án Nhà máy lọc dầu Dung Quất, Anh hùng Lao động Trương Văn Tuyến đã được giao trọng trách làm Tổng Giám đốc Vinashin.
Sau hơn 1 tháng “lăn lộn” nắm bắt và nhìn nhận toàn diện tình hình, ông Tuyến đã có cuộc trao đổi rất cởi mở và thẳng thắn với phóng viên.
- Xin ông cho biết chủ trương tái cơ cấu Vinashin đang được triển khai như thế nào?
Theo Thông báo của Bộ Chính trị và Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Vinashin sẽ tái cơ cấu lại và chỉ tập trung vào ba lĩnh vực gồm đóng và sửa chữa tàu thủy; công nghiệp phụ trợ gắn với công nghiệp đóng tàu; đào tạo nguồn nhân lực cho ngành đóng tàu và sửa chữa tàu. Với định hướng như vậy, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Giao thông Vận tải, chúng tôi đã hoàn thiện Đề án tái cơ cấu trình lên Chính phủ.
Theo đề án thì phạm vi sản xuất của chúng tôi sẽ thu hẹp lại, đặc biệt là ở những lĩnh vực không thuộc ngành đóng tàu và những đầu tư không hiệu quả. Đây là chỉ đạo rất đúng đắn của Đảng và Chính phủ, vì sau khi tái cơ cấu, Vinashin sẽ tập trung toàn bộ nguồn lực vào công tác đóng tàu và sửa chữa tàu. Khả năng của Vinashin không những giảm mà còn tăng lên vì nguồn nhân lực, nguồn tài chính và những cơ sở vật chất đã được đầu tư sẽ phát huy hiệu quả cao hơn.
- Ông có thể nói gì về khoản nợ 86.000 tỷ đồng của Vinashin?
Ông Trương Văn Tuyến: Chính món nợ lớn đã làm cho Vinashin mất cân đối về tài chính, thậm chí là khả năng tiếp tục sản xuất đã bị ngưng trệ. Trước tiên ta phải tìm ra nguyên nhân tại sao lại dẫn đến khoản nợ như vậy. Có thể nói trong những năm 2006-2008, Vinashin đã ký được rất nhiều hợp đồng, tổng giá trị lên đến trên 10 tỷ USD.
Để đáp ứng yêu cầu sản xuất theo khối lượng hợp đồng lớn như vậy thì Vinashin không những cần vốn (lưu động) lớn để sản xuất mà còn cần đầu tư vào cơ sở vật chất, trang thiết bị máy móc trong một thời gian rất ngắn.
Tôi cho rằng trong thời gian vừa rồi ngoài những đánh giá về Vinashin đã đầu tư vào một số lĩnh vực ngoài ngành, đầu tư vào một số lĩnh vực không hiệu quả thì một nguồn lực rất lớn cũng đầu tư để nâng cao năng lực sản xuất của các đơn vị.
Chính vì vậy mà các công ty đã đi vay từ các nguồn vốn thương mại, thậm chí là dùng cả nguồn vốn mà các chủ tàu tạm ứng để sản xuất sản phẩm của họ đầu tư vào nâng cao năng lực sản xuất. Đây là một trong những nguyên nhân, kèm theo nguyên nhân khách quan từ khủng hoảng tài chính trên thế giới, đã làm cho tình trạng mất cân đối tài chính của Vinashin trầm trọng như vậy.
Theo đề án tái cơ cấu, thứ nhất, Vinashin sẽ thu hẹp sản xuất lại, các doanh nghiệp ngoài ngành sẽ được xử lý bằng cách sáp nhập vào các đơn vị khác, cổ phần hóa, các đơn vị đã cổ phần hóa thì có thể thoái vốn hoặc bán, thậm chí có thể giải thể.
Từ tháng 6/2010, theo quyết định của Thủ tướng thì một số dự án, doanh nghiệp đã được chuyển giao cho các Tập đoàn khác như Vinalines, Petrovietnam và họ đã bắt đầu hoạt động có hiệu quả, đồng thời Vinashin thu được khoản mà mình đã đầu tư từ đấy về.
Với những doanh nghiệp còn lại, Vinashin cũng sẽ cố gắng thu lại một khoản mình đã đầu tư, tốt nhất là hòa vốn và cũng có thể phải chấp nhận lỗ một phần, nhưng dù sao cũng bù đắp được nguồn vốn mình đã bỏ ra.
Thứ hai, sau khi cơ cấu lại, chúng ta tập trung vào ngành mũi nhọn là đóng và sửa chữa tàu, tổ chức lại sản xuất, phát huy hiệu quả những cơ sở vật chất mà Vinashin đã đầu tư; đồng thời trình Chính phủ cấp vốn điều lệ đủ cho sản xuất. Với những giải pháp đồng bộ như vậy thì sản xuất của Vinashin sẽ hiệu quả hơn.
Không ai khác ngoài Vinashin sẽ chịu trách nhiệm trang trải nguồn nợ đã vay để đầu tư trước đây, chứ không phải thoái thác trách nhiệm trả nợ này.
- Như vậy là con số 86.000 tỷ đồng không hoàn toàn mất đi?
Ông Trương Văn Tuyến: Con số 86.000 tỷ đồng như công bố là đã và đang hình thành tài sản. Bây giờ trách nhiệm của chúng ta là phải đưa nó vào hoạt động sản xuất mang lại hiệu quả. Và rồi khoản vốn đó sẽ được hoàn trả trong tương lai. Nó không thể mất đi được và trách nhiệm là của Vinashin phải hoàn trả.
Theo kết quả lấy phiếu tín nhiệm các chức danh, cán bộ chủ chốt do Hội đồng Nhân dân thành phố Hà Nội công bố chiều 4/7, ông Nguyễn Đình Đức, Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Nội là người có số phiếu “tín nhiệm cao” ít nhất trong số 18 cán bộ lãnh đạo Hà Nội, với 27 phiếu. Ông Đức cũng là người có số phiếu “tín nhiệm thấp” nhiều nhất với 23 phiếu.
Trong một cuộc trò chuyện với các cán bộ, nhân viên nữ công tác tại Bộ Ngoại giao, bà Tôn Nữ Thị Ninh đã chia sẻ những bài học kinh nghiệm của bản thân trong phát huy thế mạnh của nhà ngoại giao nữ.
Tại hội thảo chuyên đề về chính sách tiền tệ và lạm phát mục tiêu cuối tuần qua, ông Nguyễn Đức Hưởng, Phó chủ tịch Hội đồng Quản trị Ngân hàng Bưu điện Liên Việt (LienVietPostBank), đưa ra một quan điểm trái chiều.
Tại cuộc họp báo của Văn phòng Quốc hội về kỳ họp thứ 5, các câu hỏi chuyển tới Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc chủ yếu tập trung vào nội dung lấy phiếu tín nhiệm mà Quốc hội dự kiến sẽ dành khoảng 3 ngày thực hiện công việc này.
Ngày 16/5, tại buổi họp báo về 2 dự án Tổ hợp bauxit-alumin (nhôm) Lâm Đồng và dự án alumin Nhân Cơ (Đăk Nông), TS Nguyễn Tiến Chỉnh - Trưởng Ban Khoa học công nghệ và Chiến lược phát triển (thuộc Vinacomin) khẳng định, 2 dự án có hiệu quả về kinh tế. Theo tính toán sẽ nộp ngân sách 400 tỷ đồng/năm.
Theo GS.TS TRẦN NGỌC THƠ (Trường ĐH Kinh tế TP.HCM), yếu tố tâm lý có tác động rất lớn đến lạm phát, vì thế vai trò của nhà điều hành là phải thông tin đầy đủ, kịp thời thông điệp của mình đến người dân. Ông Thơ nói:
Người lao động (NLĐ) không may chết ở nước ngoài hay bị tai nạn lao động, tai nạn rủi ro, bệnh tật... không đủ sức khỏe tiếp tục làm việc, phải về nước trước thời hạn, bản thân họ hay thân nhân được hưởng gì từ Quỹ Hỗ trợ Việc làm Ngoài nước (gọi tắt là Quỹ - PV)?
Việc Ngân hàng Nhà nước tăng lãi suất có thể bị phản ứng, nhưng vì lợi ích của cả nền kinh tế thì đó là một động thái cần thiết. Đó là quan điểm của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Giàu tại cuộc họp báo thường kỳ của Chính phủ, chiều 2/12.
Người làm chính sách vĩ mô là rất dũng cảm, chịu áp lực nhiều nhóm trong xã hội, nhưng không thể chiều lòng theo áp lực xã hội được. Anh phải quyết, làm chính sách vĩ mô thì về tổng thể, nền kinh tế được cái lợi chung. Và để làm được như vậy, nhà hoạch định chính sách phải minh bạch, giải trình với thị trường.
Làm sao bảo đảm thu nhập cho viên chức, để họ có thể yên tâm làm việc là câu hỏi được PV đặt ra với GS.TSKH Đào Trọng Thi, Chủ nhiệm Uỷ ban Văn hoá, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội xung quanh Dự thảo Luật viên chức vừa được Quốc hội cho ý kiến.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Với sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 cùng tham vọng và thực lực của Trung Quốc cũng như những tuyên bố bất chấp dư luận quốc tế của giới lãnh đạo nước này trong thời gian qua đã đặt Việt Nam trước việc phải chấp nhận một thực tế là trong giai đoạn tới, đất nước sẽ phải phát triển kinh tế trong điều kiện không có có môi trường hoàn toàn thuận lợi do những lo ngại về bất ổn.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Các nước lớn đóng vai trò rất quan trọng trong việc dàn xếp các cuộc xung đột mang tính quốc tế và nhiều khi họ sử dụng các vấn đề của thiên hạ để phục vụ cho những tính toán của riêng mình
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
Sau gần 25 năm đổi mới, bộ mặt kinh tế, xã hội Việt Nam đã khác hẳn. So với 10 năm trước, đời sống của dân chúng nói chung hiện nay được cải thiện nhiều, vị trí của Việt Nam trên thế giới cũng tăng lên đáng kể. Rõ ràng ở đây có vấn đề hiệu suất phát triển, có khả năng bỏ lỡ các cơ hội mà nguyên nhân sâu xa nằm ở cơ chế, ở sự chậm hoàn thiện cơ chế thị trường, ở năng lực nắm bắt cơ hội, và việc thực thi các chính sách, vì các điều kiện về bối cảnh khu vực và cơ hội phát triển Việt Nam không bất lợi so với các nước lân cận.
Bàn cờ kinh tế VN bị chia thành rất nhiều mảnh nhỏ. Các mảnh này thường bị chi phối bởi các nhóm độc quyền và đặc quyền. Điểm yếu cơ bản nhất trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam là tăng trưởng chủ yếu nhờ vào việc bán tài nguyên và gia công trình độ thấp, nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà nước vốn kém hiệu quả làm chủ đạo.
Việt Nam tăng 18 bậc lên vị trí thứ 71 trong bảng chỉ số về môi trường thương mại toàn cầu năm 2010 vừa được WEF công bố. Trong tổng số 125 nền kinh tế được WEF xem xét năm nay Singapore và Hồng Công tiếp tục dẫn đầu thế giới về phương diện tạo điều kiện thuận lợi cho tăng cường trao đổi thương mại toàn cầu.
Hiện nay quy mô của các vùng kinh tế trọng điểm (VKTTĐ) đã mở rộng đến gấn 25% diện tích và chiếm khoảng 70% thu nhập kinh tế của cả nước. Một vấn đề đặt ra là: quan điểm ngày càng mở rộng quy mô diện tích của các VKTTĐ của Việt Nam có hợp lý hay không? Làm thế nào để các VKTTĐ phải thực sự là động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế của cả nước ,có một thế đứng vững chắc trong tương lai nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
Ngày 17-5, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) đã tổ chức hội thảo tham vấn cho dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 5 năm 2011-2015, với sự tham gia của đại diện các cơ quan quốc tế. Nội dung chủ yếu nêu lên bức tranh toàn cảnh về KT-XH, cùng những vấn đề liên quan khi nước ta bước vào giai đoạn "đệm" chuyển tiếp để cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020.
Bên cạnh những vấn đề quản lý đô thị, trung tâm hành chính quốc gia… thì bài toán kinh tế là băn khoăn lớn nhất khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về đồ án quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, sáng 11/5.
Kể từ khi khu kinh tế ven biển đầu tiên là Chu Lai được thành lập năm 2003, đến nay đã có 14 khu kinh tế biển được thành lập, gồm 2 khu ở đồng bằng sông Hồng, 10 khu ở vùng duyên hải miền Trung và 2 khu ở miền Nam. Theo Quy hoạch phát triển các KKT biển đến năm 2020 cả nước sẽ có 15 khu kinh tế biển với kinh phí đầu tư khoảng 162.000 tỷ đồng và tạo việc làm cho khoảng 500.000 ngàn người.
Tại bài viết mới nhất trên blog của mình, TS. Trần Công Hòa đã phân tích và đưa ra một số khuyến nghị về hoạch định chính sách và điều hành nền kinh tế 2010: tiếp tục giảm giá VND; cắt giảm chi tiêu công; tăng tính độc lập của NHNN; kiên quyết cho phá sản những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ; điều chỉnh chính sách thuế ở một số lĩnh vực theo phương thức lũy tiến; phát triển công nghiệp phụ trợ;...
Tăng trưởng luôn luôn là một cuộc trường chinh. Vì vậy, không thể chỉ vì tăng trưởng ngắn hạn mà hy sinh sự ổn định và bền vững trong dài hạn. Cổ nhân ngày xưa có câu “dục tốc bất đạt”, không những thế cái giá phải trả cho kinh tế bất ổn rất lớn, chỉ cần nhìn sang mấy nước xung quanh như Thái Lan, Indonesia hay Philippines là có thể thấy rất rõ điều này.
Cải cách cơ cấu là một đòi hỏi nghiệt ngã đối với tất cả các nước muốn tiến bước trên con đường đi đến phồn vinh. Thế nhưng, có nhiều nước không chủ động vượt qua đòi hỏi này khi tình thế kinh tế còn thuận lợi và thường bắt đầu nó quá muộn khi đất nước đã rơi vào khủng hoảng. Điều này lý giải tại sao nhiều nước có khởi đầu tốt nhưng rồi sa lầy trong cạm bẫy của mức thu nhập trung bình ...
Năm 2009, tăng trưởng GDP đạt 5,32%; lạm phát được kiềm chế dưới 7%; hệ số ICOR là 5, 16. Những con số này có thể cho cảm nhận kinh tế vĩ mô đang ở tình trạng khá ổn định. Tuy nhiên Tổng cục Thống kê cho rằng các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc, bất bình đẳng giầu nghèo tăng, chậm được khắc phục,...
Nền kinh tế của Việt Nam đã và đang ngày một trở nên phức tạp hơn, với các cơ chế, thị trường, tổ chức và lực lượng kinh tế mới ra đời trong suốt hơn hai thập niên đổi mới. Sự gấp gáp của cuộc đua tranh kinh tế được nhân lên bằng hành trình hội nhập, trong đó Việt Nam là thành viên mới của WTO.