Trao đổi với Vietnam+, ông Phạm Chí Cường, Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam, cho biết ngành thép đang tồn tại một nghich lý là lượng thép tồn kho nhiều và phải cạnh tranh gay gắt với hàng nhập khẩu, nhưng nhiều nhà máy vẫn tiếp tục mọc lên.
Thưa ông, Bộ Công thương vẫn tiếp tục yêu cầu các địa phương không cấp phép cho các dự án thép ngoài qui hoạch, vậy hiệu quả của chương trình này đến đâu?
Ông Phạm Chí Cường: Đấy cũng là kiến nghị của doanh nghiệp vì công suất đang dư thừa nhiều thực sự.
Theo phân cấp hiện nay, những dự án thép có số vốn dưới 1.500 tỷ đồng sẽ do địa phương cấp phép nhưng không hiểu tại sao Hiệp hội đã kiến nghị và Bộ Công thương cũng đã trình Chính phủ nhưng nhiều nhà máy thép ở vùng sâu vung xa, thiếu đầu ra vẫn đang tiếp tục được xây dựng.
Theo ước tính, lượng tồn kho của tháng 5/2011 vào khoảng 430.000 tấn, trong khi bình quân hàng tháng con số này chỉ từ 200.000-300.000 tấn.
Nói là dư thừa, cạnh tranh trong nước khó khăn như thế, phải chia sẻ thị phần thế, nhưng ngay trước hôm họp bàn vấn đề này vẫn có thông tin về khởi động nhà máy thép ở Sơn La với công suất 130.000 tấn. Làm ở Sơn La thì bán đi đâu, vận tải khó khăn, ở địa phương làm sao tiêu thụ được.
Bên cạnh đó, Sơn La lại nằm ở sát với Trung Quốc, một thị trường rất mạnh về xuất khẩu thép nên hiệu quả kinh tế cũng cần phải được xem xét lại.
Biết là lãng phí, nhưng nhiều địa phương vẫn cấp phép đầu tư? Ở đây chúng ta vẫn chưa có một cái nhìn dài hạn, nhiều nhà đầu tư vẫn nhìn vào mấy cái mỏ, chưa làm gì thì cứ khai thác quặng đã, xuất đi để kiếm lời bù cho sản xuất thép.
Mặc dù chủ trương của Việt Nam là cấm xuất khẩu quặng. Nhưng vẫn có “lách” luật hoặc dùng cách này cách khác để không xuất bằng đường chính ngạch thì qua tiểu ngạch.
Đến ngày 19/4, tổng công suất cán thép xây dựng trong nước đã là 8,9 triệu tấn, tuy nhiên, vẫn còn nhiều nhà máy đang san nền, tức là công suất sẽ còn tăng vọt lên nữa.
Có phải nhiều nhà máy thép trong nước vẫn đang chạy dưới công suất, thưa ông?
Ông Phạm Chí Cường: Phần nhiều các nhà máy đang chạy khoảng 60% công suất thôi, nếu chạy hết công suất thì bán đi đâu. Bây giờ vốn lưu động thì thiếu, nhập nguyên liệu về mà cứ giữ ở đấy thì trả lãi vay ngân hàng cũng đủ mệt rồi.
Hôm họp với Bộ Công Thương, Tổng công ty Thép báo cáo là với lãi suất như hiện nay, nếu giữ 1 tấn thép/tháng thì phải thêm 300.000 đồng tiền trả lãi suất ngân hàng.
Tức là 1 tấn thép bán với giá 19 triệu đồng chẳng hạn, nếu không bán tháng này mà giữ để sang tháng sau thì tôi đã phải cộng thêm 300.000 đồng tiền lãi ngân hàng, tức là doanh nghiệp sẽ phải bán với giá là 19,3 triệu/tấn chứ không phải 19 triệu đồng nữa. Nhưng người sản xuất không thể bán được với giá đó.
Còn dự trữ phôi và sắt thép phế cũng duy trì một lượng vừa đủ nhằm duy trì sản xuất. Thường thì làm theo nhu cầu thị trường. Bây giờ 9 triệu tấn công suất/năm, mà thời điểm tiêu thụ tốt nhất cũng chỉ đạt 5,6 triệu tấn (trong đó có 4,9 triệu tấn của Hiệp hội). thì thử hỏi số còn lại là 3,4 triệu tấn sẽ bán đi đâu.
Nhiều thông tin cho rằng các nhà máy thép đang được hưởng lợi từ giá điện thấp, với cơ chế điện theo thị trường hiện nay thì ngành thép sẽ xoay sở thế nào?
Ông Phạm Chí Cường: Theo ý kiến cá nhân tôi, Việt Nam đã kìm giữ giá điện trong thời gian dài, nếu tăng một lúc thì sẽ bị sốc cho ngành thép và cho cả nền kinh tế. Vì vậy 3 tháng điều chỉnh một lần cũng hợp lý.
Trong cơ cấu giá thành sản xuất thép, giá thành điện và nhiều chi phí khácchiếm chưa đến 10%. Cái chiếm nhiều nhất vẫn là nguyên liệu (than, quặng, phôi, thép phế) khoảng hơn 90%.
Việc lấy ý kiến của các ngành chức năng nhằm đưa ra chính sách bình ổn các mặt hàng cơ bản, trong đó có thép, ảnh hưởng như thế nào đến hoạt động của các doanh nghiệp, thưa ông?
Ông Phạm Chí Cường: Theo tôi, với mặt hàng thép, quy định giữ 10% lượng hàng nhằm bình ổn trong điều kiện hiện nay là không cần thiết.
Vì hàng tháng cứ đến ngày 31 là vẫn có dự trữ nửa triệu tấn phôi và khoảng 300.000-400.000 tấn thép thành phẩm, như vậy có nghĩa là nếu anh có dự trữ 5-10% thì nó cũng lọt thỏm.
Trong khi đó các doanh nghiệp đều còn phải dự trữ để sản xuất, chưa kể trong thương mại còn cần có dự trữ, tồn kho. Giá lên, giá xuống không phải do thiếu thép. Hiện nay ta đang dư thừa thép xây dựng, công suất đang vượt cầu.
Theo kết quả lấy phiếu tín nhiệm các chức danh, cán bộ chủ chốt do Hội đồng Nhân dân thành phố Hà Nội công bố chiều 4/7, ông Nguyễn Đình Đức, Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Nội là người có số phiếu “tín nhiệm cao” ít nhất trong số 18 cán bộ lãnh đạo Hà Nội, với 27 phiếu. Ông Đức cũng là người có số phiếu “tín nhiệm thấp” nhiều nhất với 23 phiếu.
Trong một cuộc trò chuyện với các cán bộ, nhân viên nữ công tác tại Bộ Ngoại giao, bà Tôn Nữ Thị Ninh đã chia sẻ những bài học kinh nghiệm của bản thân trong phát huy thế mạnh của nhà ngoại giao nữ.
Tại hội thảo chuyên đề về chính sách tiền tệ và lạm phát mục tiêu cuối tuần qua, ông Nguyễn Đức Hưởng, Phó chủ tịch Hội đồng Quản trị Ngân hàng Bưu điện Liên Việt (LienVietPostBank), đưa ra một quan điểm trái chiều.
Tại cuộc họp báo của Văn phòng Quốc hội về kỳ họp thứ 5, các câu hỏi chuyển tới Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc chủ yếu tập trung vào nội dung lấy phiếu tín nhiệm mà Quốc hội dự kiến sẽ dành khoảng 3 ngày thực hiện công việc này.
Ngày 16/5, tại buổi họp báo về 2 dự án Tổ hợp bauxit-alumin (nhôm) Lâm Đồng và dự án alumin Nhân Cơ (Đăk Nông), TS Nguyễn Tiến Chỉnh - Trưởng Ban Khoa học công nghệ và Chiến lược phát triển (thuộc Vinacomin) khẳng định, 2 dự án có hiệu quả về kinh tế. Theo tính toán sẽ nộp ngân sách 400 tỷ đồng/năm.
Những "nút thắt" khó gỡ nhất trong cổ phần hoá (CPH) DNNN như: xác định giá đất, tìm kiếm cổ đông chiến lược… sắp được gỡ khi dự thảo Nghị định thay thế Nghị định 109 về chuyển DN 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần đã được Bộ Tài chính hoàn tất và dự kiến trình Thủ tướng Chính phủ để ban hành trong tháng 6 này.
Trước những đề nghị được “châm chước” với hai chỉ tiêu quan trọng tại Nghị quyết 11/NQ-CP, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Giàu khẳng định: không nhân nhượng với bất kỳ tổ chức tín dụng nào có tăng trưởng dư nợ tín dụng vượt quá 20%, đồng thời...
Theo đánh giá của Bộ Công Thương, giá thép liên tục tăng cao trong thời gian qua một phần là do hệ thống phân phối có vấn đề. Do đó, các doanh nghiệp cần đầu tư xây dựng hệ thống bán lẻ tốt hơn nữa để đảm bảo đầu ra, giữ vững được vị trí điều tiết thị trường.
Phó tổng giám đốc Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV), ông Vũ Mạnh Hùng, vừa có cuộc trao đổi với báo giới xung quanh những ý kiến trái chiều trước việc TKV cho nhập gần 10 nghìn tấn than vào ngày 13/6 vừa qua.
Thời gian gần đây, giá một số thực phẩm như thịt gia súc, gia cầm, trứng... tăng cao đột biến được không ít ý kiến cho rằng có nguyên nhân do thương nhân Trung Quốc sang Việt Nam thu mua với số lượng lớn gây nên tình trạng khan hiếm nguồn cung cho thị trường trong nước.
Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn đồ chơi trẻ em (QCVN 3:2009/BKHCN) có hiệu lực từ ngày 15/4/2010, nhưng đến thời điểm này, trên thị trường vẫn còn khá nhiều loại đồ chơi trẻ em chưa thực hiện quy định.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Với sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 cùng tham vọng và thực lực của Trung Quốc cũng như những tuyên bố bất chấp dư luận quốc tế của giới lãnh đạo nước này trong thời gian qua đã đặt Việt Nam trước việc phải chấp nhận một thực tế là trong giai đoạn tới, đất nước sẽ phải phát triển kinh tế trong điều kiện không có có môi trường hoàn toàn thuận lợi do những lo ngại về bất ổn.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Các nước lớn đóng vai trò rất quan trọng trong việc dàn xếp các cuộc xung đột mang tính quốc tế và nhiều khi họ sử dụng các vấn đề của thiên hạ để phục vụ cho những tính toán của riêng mình
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
Sau gần 25 năm đổi mới, bộ mặt kinh tế, xã hội Việt Nam đã khác hẳn. So với 10 năm trước, đời sống của dân chúng nói chung hiện nay được cải thiện nhiều, vị trí của Việt Nam trên thế giới cũng tăng lên đáng kể. Rõ ràng ở đây có vấn đề hiệu suất phát triển, có khả năng bỏ lỡ các cơ hội mà nguyên nhân sâu xa nằm ở cơ chế, ở sự chậm hoàn thiện cơ chế thị trường, ở năng lực nắm bắt cơ hội, và việc thực thi các chính sách, vì các điều kiện về bối cảnh khu vực và cơ hội phát triển Việt Nam không bất lợi so với các nước lân cận.
Bàn cờ kinh tế VN bị chia thành rất nhiều mảnh nhỏ. Các mảnh này thường bị chi phối bởi các nhóm độc quyền và đặc quyền. Điểm yếu cơ bản nhất trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam là tăng trưởng chủ yếu nhờ vào việc bán tài nguyên và gia công trình độ thấp, nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà nước vốn kém hiệu quả làm chủ đạo.
Việt Nam tăng 18 bậc lên vị trí thứ 71 trong bảng chỉ số về môi trường thương mại toàn cầu năm 2010 vừa được WEF công bố. Trong tổng số 125 nền kinh tế được WEF xem xét năm nay Singapore và Hồng Công tiếp tục dẫn đầu thế giới về phương diện tạo điều kiện thuận lợi cho tăng cường trao đổi thương mại toàn cầu.
Hiện nay quy mô của các vùng kinh tế trọng điểm (VKTTĐ) đã mở rộng đến gấn 25% diện tích và chiếm khoảng 70% thu nhập kinh tế của cả nước. Một vấn đề đặt ra là: quan điểm ngày càng mở rộng quy mô diện tích của các VKTTĐ của Việt Nam có hợp lý hay không? Làm thế nào để các VKTTĐ phải thực sự là động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế của cả nước ,có một thế đứng vững chắc trong tương lai nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
Ngày 17-5, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) đã tổ chức hội thảo tham vấn cho dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 5 năm 2011-2015, với sự tham gia của đại diện các cơ quan quốc tế. Nội dung chủ yếu nêu lên bức tranh toàn cảnh về KT-XH, cùng những vấn đề liên quan khi nước ta bước vào giai đoạn "đệm" chuyển tiếp để cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020.
Bên cạnh những vấn đề quản lý đô thị, trung tâm hành chính quốc gia… thì bài toán kinh tế là băn khoăn lớn nhất khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về đồ án quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, sáng 11/5.
Kể từ khi khu kinh tế ven biển đầu tiên là Chu Lai được thành lập năm 2003, đến nay đã có 14 khu kinh tế biển được thành lập, gồm 2 khu ở đồng bằng sông Hồng, 10 khu ở vùng duyên hải miền Trung và 2 khu ở miền Nam. Theo Quy hoạch phát triển các KKT biển đến năm 2020 cả nước sẽ có 15 khu kinh tế biển với kinh phí đầu tư khoảng 162.000 tỷ đồng và tạo việc làm cho khoảng 500.000 ngàn người.
Tại bài viết mới nhất trên blog của mình, TS. Trần Công Hòa đã phân tích và đưa ra một số khuyến nghị về hoạch định chính sách và điều hành nền kinh tế 2010: tiếp tục giảm giá VND; cắt giảm chi tiêu công; tăng tính độc lập của NHNN; kiên quyết cho phá sản những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ; điều chỉnh chính sách thuế ở một số lĩnh vực theo phương thức lũy tiến; phát triển công nghiệp phụ trợ;...
Tăng trưởng luôn luôn là một cuộc trường chinh. Vì vậy, không thể chỉ vì tăng trưởng ngắn hạn mà hy sinh sự ổn định và bền vững trong dài hạn. Cổ nhân ngày xưa có câu “dục tốc bất đạt”, không những thế cái giá phải trả cho kinh tế bất ổn rất lớn, chỉ cần nhìn sang mấy nước xung quanh như Thái Lan, Indonesia hay Philippines là có thể thấy rất rõ điều này.
Cải cách cơ cấu là một đòi hỏi nghiệt ngã đối với tất cả các nước muốn tiến bước trên con đường đi đến phồn vinh. Thế nhưng, có nhiều nước không chủ động vượt qua đòi hỏi này khi tình thế kinh tế còn thuận lợi và thường bắt đầu nó quá muộn khi đất nước đã rơi vào khủng hoảng. Điều này lý giải tại sao nhiều nước có khởi đầu tốt nhưng rồi sa lầy trong cạm bẫy của mức thu nhập trung bình ...
Năm 2009, tăng trưởng GDP đạt 5,32%; lạm phát được kiềm chế dưới 7%; hệ số ICOR là 5, 16. Những con số này có thể cho cảm nhận kinh tế vĩ mô đang ở tình trạng khá ổn định. Tuy nhiên Tổng cục Thống kê cho rằng các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc, bất bình đẳng giầu nghèo tăng, chậm được khắc phục,...
Nền kinh tế của Việt Nam đã và đang ngày một trở nên phức tạp hơn, với các cơ chế, thị trường, tổ chức và lực lượng kinh tế mới ra đời trong suốt hơn hai thập niên đổi mới. Sự gấp gáp của cuộc đua tranh kinh tế được nhân lên bằng hành trình hội nhập, trong đó Việt Nam là thành viên mới của WTO.