Tin kinh tế, tài chính, đầu tư, chứng khoán,tiêu dùng

Phố cổ Hà Nội và những kiến trúc tiêu biểu

 Giới thiệu giá trị kiến trúc và giá trị lịch sử ngôi nhà cổ 87 Mã Mây

Ngôi nhà 87 Mã Mây có bố cục không gian đặc trưng cho kiến trúc nhà ở kiêm bán hàng được xây dựng đầu thế kỷ XIX. Với kiểu nhà bám theo mặt phố để tiện lợi cho việc buôn bán, bố cục là nhà hình ống, chia thành nhiều lớp nhà có chức năng sử dụng khác nhau và được thông gió và lấy sáng tự nhiên bằng các sân trời. Mặt tiền được trang trí bằng các con tiện gỗ và các chi tiết kiến trúc đặc trưng của nhà ở thời kỳ bấy giờ như cửa lùa gỗ, cửa tâm, tường hồi xây giật tam cấp, trụ đấu mái xây bằng gạch, chi tiết trang trí diềm mái, v.v...

Tên gọi: 

Nhà số 87 phố Mã Mây được gọi là nhà cổ hay nhà truyền thống khu phố cổ Hà nội.
Địa điểm phân bố:

Phố Mã Mây hiện nay nằm phía Bắc Hồ Hoàn Kiếm, trên địa bàn phường Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Trước kia thuộc địa dư phường Hà Khẩu, tổng Đông Thọ, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức

 Hiện nay thuộc thửa đất số 186 ô 7H-II-30 trên bản đồ địa chính thành phố Hà Nội

Đường đi đến di tích

Ngôi nhà 87 phố Mã Mây có mặt đứng chính hướng về  phía Tây nam. Có thể đi tới di tích bằng nhiều đường khác nhau. Như đi tới bưu điện thành phố (bưu điện Bờ Hồ) ngược lên phía Bắc, đi thẳng tới phố Hàng Dầu, Hàng Beè, rẽ trái phố Hàng Bạc sẽ gặp ngay phố Mã Mây ở bên phải. Phương tiện đi lại thuận tiện nhất trong khu vực hiện nay là xe đạp, xe máy hoặc đi bộ.

Quá trình phát triển kiến trúc nhà ở truyền thống trong khu Phố cổ Hà Nội:

Khu Phố cổ Hà Nội được hình thành và phát triển theo sự phát triển của kinh kỳ Thăng Long xưa và Thủ đô Hà Nội ngày nay. Khu Phố cổ Hà Nội là một quần thể kiến trúc độc đáo mang đậm bản sắc dân tộc Việt Nam nói chung và mang  tính đặc trưng cho riêng Hà Nội.

Xen lẫn với các công trình tôn giáo, lịch sử, văn hóav.v. là các công trình kiến trúc nhà ở. Những công trình kiến trúc nhà ở chủ yếu được xây dựng  vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX dựa trên cơ sở nền móng được hình thành từ  những thế kỷ trước. Đó là những ngôi nhà có kiến trúc truyền thống, nhà hình ống và có nhiều lớp nhà; giữa các lớp nhà có sân để lấy ánh sáng và không khí, đây cũng là nơi bày cây cảnh, uống nước, ngắm trăng. Kết cấu chủ yếu chủ yếu của công trình là gỗ, mái lợp ngói với hệ thống vì kèo gỗ và có nhiều hoạ tiết trang trí.

 

Nhìn vào những ngôi nhà ở này ta vẫn dễ dàng nhận thấy là những ngôi nhà ba hoặc năm gian đã có biến đổi đi, được bố trí thành nhiều lớp cách nhau bằng một sân nhỏ phát triển chủ yếu theo nhu cầu cụ thể cuộc sống một gia đình có người vợ là tiểu thương hay người chồng là thợ thủ công chuyên nghiệp.

Do yêu cầu về việc buôn bán ở thành thị nên việc mở cửa hàng để bán hàng ở những nhà có mặt cửa hàng rộng quay ra phố là một vấn đề quan trọng và tất yếu. Vì vậy, đại đa số các nhà chỉ có bề ngang từ 2m đến 6m, tức là bằng bề rộng một gian trong ngôi nhà 3 hoặc 5 gian khi xưa, nhưng lại được phát triển mạnh theo chiều sâu mà vẫn dùng kết  cấu mái cũ của nhà dân gian nên không gian  mái sẽ lớn và để tận dụng người ta thường làm thêm những gác lửng leo lên bằng cách để lỗ sàn và gác một cầu thang một vế với độ dốc 70° đến 75° làm bằng gỗ.

Gác lửng để chứa hàng dự trữ hay kê giường ngủ nên có độ cao không quá 2, 2m. Nếu cần phát triển hơn nữa về diện tích để ở thì họ phát triển theo chiều cao nhà để thành những tầng nhà hẳn hoi, do đó ta thấy có những nhà chiều ngang chỉ một vài mét nhưng làm cao đến 2, 3 tầng và có chiều sâu đến vài chục mét. Chính vì vậy mà nó được gọi với cái tên là “nhà hình ống”. Kiểu kiến trúc đó nhằm đảm bảo thông gió và lấy sáng tốt cho các buồng - phòng, lớp trong cùng tiếp xúc với sân bếp, khu vệ sinh và chỗ ở của người giúp việc gia đình.

Quan hệ nội bộ các phòng đều là quan hệ xuyên phòng, lợi dụng khoảng không kê đồ sát một mặt tường dọc làm lối đi.

Nhu cầu ở của người dân lúc đó còn đơn giản, họ chưa cần những khoảng không gian riêng tư như ngày nay vì vậy việc xuyên suốt từ không gian phòng này tới phòng khác là đặc trưng nổi bật không gian nhà ở trong khu 36 phố phường.

Để thích nghi với cuộc sống gia đình có vợ buôn bán hoặc chồng làm thợ thủ công, người ta vẩy thêm một mái đua ra phố dùng làm cửa hàng buôn bán.

Có thể thấy ở đây không gian sản xuất, kinh doanh ngành nghề thủ công đan xen dưới cùng một mái nhà cùng với không gian ở. Phù hợp với tập quán của người dân là: ở + sản xuất + kinh doanh buôn bán nhỏ.

Các giai đoạn hình thành và phát triển kiểu nhà ở kiêm bán hàng trong khu Phố cổ Hà Nội (khu “36 phố phường”):

-  Nhà xây trước năm 1890:

 

Là loại nhà ở cổ truyền thống của khu Phố cổ Hà Nội, loại này có đặc điểm  chung sau: Đây là loại nhà hình ống, phát triển theo chiều sâu, tường nhà nọ liền kề với tường nhà kia. Mặt tiền hướng ra phố bề ngang chỉ khoảng 2 mét đến 5 mét và sâu từ  20 mét đến 60 mét. Bên trong nhà có các sân trong để lấy ánh sáng thông thoáng. Số sân phục thuộc vào chiều sâu nhà thường có phổ biến từ 1 đến 2 sân trong.

Hình dáng kiến trúc phổ biến là nhà lợp mái.? hai đầu đỉnh mái ngói của ngôi nhà là hai khối nhô lên hình chữ nhật, xây bằng gạch gọi là trụ đấu mái. Tường giữa mái nhà nọ với nhà kia xây gạch cao lên 1, 0 mét đến 1, 5 mét hình tam cấp để chống cháy lan, chống thấm cho tường, nhà loại cổ nhất đa phần có 1 tầng, hoặc 1 tầng có gác xép nhỏ ở trên để làm kho chứa hàng.

Tường ngoài gác xép thường bịt đặc hoặc có lỗ hoa để thông thoáng lấy ánh sáng.

 - Nhà xây từ 1890 - 1930:

Đến cuối thế kỷ 19, lịch sử Việt Nam đã có những biến đổi rõ rệt và mạnh mẽ. Nhưng trong khu Phố cổ Hà Nội nhà cửa vẫn còn đủ sức tồn tại, thường của những thương nhân.

Như vậy những ngôi nhà  xây trước 1890 có thể coi là nhà cổ truyền.

Nhìn chung những ngôi nhà này được xây dựng vuông góc với đường phố.

Thời kỳ thực dân Pháp xâm lược nước ta và Hà Nội được chọn là trung tâm kinh tế chính trị cho toàn bộ Đông Nam Á. Khu 36 phố phường được mở rộng như một trung tâm buôn bán, do vậy loại nhà có cửa hàng được phổ biến rộng rãi, bắt đầu ở khu Phố cổ, phần lớn là nhà 2 tầng (trong đó 1 tầng dành riêng cho cửa hàng).

Trong nhóm này, một đặc điểm đặc trưng nhất là  các cầu thang bằng gỗ hay gạch cổ  thay cho những thang gỗ di động trước kia.

Một số ngôi nhà sử dụng gạch đúc sẵn. Đôi khi bê tông được dùng cho mái chảy, không gian cổ truyền là như trước nhưng kỹ thuật xây dựng tiên tiến hơn.

- Nhà xây từ 1931 - 1954 :

Những phương thức xây dựng  nhà truyền thống vẫn tương tự như trước,.

Nhà xây từ 1955 - 1975 :

Do ảnh hưởng của chiến tranh, nhà cửa thời gian này không được phát triển. Vật liệu vẫn là vật liệu cổ truyền như trước.

Nhà xây từ sau năm 1975 :

Là những nhà có hình thức kiến trúc cổ truyền  được xây dựng, cải tạo theo hình thức kiến trúc hiện đại  trung bình là 2 tầng với sàn bê tông và bất cứ nơi nào có thể với những góc mái đua thêm để tăng diện tích ở. Những cửa ván gỗ thay bằng cửa sắt kéo. Kỹ thuật đá rửa, gạch ốp lát và kính được sử dụng rộng rãi đôi khi không phù hợp vớikhông gian cảnh quan kiến trúc truyền thống.

Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, những ngôi nhà truyền thống trong khu phố cổ Hà Nội đã bị biến đổi nên số lượng còn lại không nhiều, nhiều nhà đã thay đổi hình thức mặt tiền tuy nhiên kết cấu mặt bằng và công năng các nếp nhà vẫn cơ bản được gìn giữ.  Một trong 14 ngôi nhà (theo số liệu thống kê điều tra về giá trị kiến trúc năm 2001) có giá trị được bảo tồn toàn bộ về mặt giá trị kiến trúc ở phố Mã Mây là ngôi nhà số 87.

2. Lịch sử nhà số 87 phố Mã Mây:

 *Lịch sử phố Mã Mây:

Phố Mã Mây thời xưa là hai phố tên gọi khác nhau: Hàng Mây và Hàng Mã.

Hàng Mây là đất của Giáp Hương Tượng thuộc phường Hà Khẩu cũ, tức là phần đất giáp Hàng Buồm; đình Hương Tượng ở số 64 phố Mã Mây thờ Nguyễn Trung Ngạn, còn có tên là Tử ý Đại Vương. Gọi là Hàng Mây vì ở gần bến sông, nơi thuyền bè đậu  chở  từ miền ngược về các thứ lâm sản: song mây tre nứa bán cho Hàng  Mây và Hàng Mã; gỗ đem lên Bè Thượng; vỏ gió củ nâu đưa lên phố Thanh Hà.

Thời thuộc Pháp, hai phố Hàng Mây - Hàng Mã nơi trên được gọi chung là Rue Des Pavillons Noirs (phố quân Cờ Đen). Có tên đó là vì năm 1882, ở Mã Mây những tháng tiếp theo trận  Cầu Giấy, quân Pháp bị bao vây ở Đồn Thuỷ và trong Thành thì quân Cờ Đen hoành hành ở khắp các phố Hà Nội, một đơn vị của chúng đến đóng ở phố Mã Mây. Tuy nhiên người Việt Nam vẫn cứ tên cũ mà gọi  hai phố này là phố Mã Mây.

Thời kỳ đầu thế kỷ 20, những thập niên trước và sau chiến tranh thế giới 1914 - 1918, quang cảnh phố Mã Mây vần giữ các hình ảnh một phố cổ của Hà Nội. Đoạn phố Hàng Mây có những cửa hàng nhỏ bán thứ đồ gia dụng bằng song mây tre như quang thừng; họ bán những sợi mây sợi song làm nguyên liệu. Sau 1920 có một số ít nhà làm đồ hàng như ghế mây bàn mây, ghế xích đu theo kiểu đặt hàng của khách nước ngoài, thợ là người làng Sơn Đồng học lại được nghề làm ghế mây theo kiểu hàng Nhật có bày bán ở Bảo tàng khu Maurice Long khu Đấu Xảo.

Ngày nay qua nhiều biến động của lịch sử, các nghề thủ công truyền thống cũng như các mặt hàng buôn bán ở phố Mã Mây đã thay đổi nhưng cấu trúc đường phố cũng như kiến trúc của những ngôi nhà ven đường vẫn còn giữ được nét truyền thống của nó như thủa ban đầu.

Lịch sử nhà 87 phố Mã Mây:

Ngôi nhà 87 Mã Mây được xây dựng vào đầu thế kỷ XIX theo kiểu kiến trúc truyền thống Việt Nam với chức năng sử dụng để ở và bán hàng

Gia chủ nhà 87 Mã Mây trước năm 1945 ở đây và bán hàng gạo, sau năm 1945 đã bán lại cho một gia đình người Hoa  ở và bán thuốc Bắc.

Năm 1954, gia đình người Hoa di cư vào Nam, để lại ngôi nhà dưới sự quản lý của nhà nước. Năm 1954, Sở Nhà đất bố trí cho 5 gia đình đến sinh sống tại ngôi nhà này.

Ngôi nhà đã được cải tạo làm thí điểm năm 1999 với sự hợp tác giữa thành phố Hà nội (Việt nam) và thành phố Toulouse (CH Pháp) trong dự án “Bảo tồn, tôn tạo phố cổ Hà nội”.

Hiện nay, thuộc sự quản lý của UBND thành phố Hà Nội là ngôi nhà mẫu của ngôi nhà truyền thống trong khu Phố cổ Hà Nội được bảo tồn tốt.

Dựa vào nội dung, tính chất của công trình; căn cứ vào các phân loại hiện nay, công trình thuộc loại hình di tích kiến trúc nghệ thuật. Nhà 87 Mã Mây là loại nhà ở  truyền thống của khu Phố cổ Hà Nội - nhà hình ống, có những đặc điểm kiến trúc của nhà xây dựng thời kỳ năm 1890.

Ngôi nhà có diện tích là 157,6 m2, được xây dựng vuông góc với đường phố ; có chiều dài đất là 28m, chiều rộng mặt tiền 5m và chiều rộng của mặt hậu là 6m. Vì vậy hình thức của miếng đất là  "nở hậu",  mảnh đất "nở hậu" như vậy sẽ mang lại phúc lộc về hậu vận.

Mặt bằng có cơ cấu không gian kiến trúc kiểu nhà truyền thống phố cổ Hà Nội, đó là : Nhà 1 - Sân 1 - Nhà 2 -Sân 2- Bếp - Nhà 3 (vệ sinh, kho)

Như vậy không gian kiến trúc của ngôi nhà được phân chia bởi từng lớp nhà và sân:

- Lớp nhà ngoài (lớp nhà 1): tầng 1 để bán hàng, tầng 2 gian tiếp khách và gian thờ.

- Lớp nhà trong (lớp nhà 2): tầng 1 gồm nơi cất giữ hàng hoá và nơi dành cho người giúp việc; tầng 2 là phòng ngủ của chủ nhà với hiên trước có mái là nơi ngồi uống trà hay chơi cờ tướng của gia chủ và hiên sau là sân phơi thuốc bắc.

Hai lớp nhà này được cách nhau bằng  sân rộng để lấy ánh sáng và thông thoáng cho toàn bộ ngôi nhà.? sân thứ nhất (sân 1, được gọi là sân khô), gia chủ trang trí bằng các chậu cây cảnh bonsai để mang thêm  nét thiên nhiên vào không gian nhà. Sân thứ 2; một phần có mái che là nơi nấu nướng (bếp), phần còn lại của sân là bể chứa nước mưa và sân để giặt giũ (được gọi là sân nước).

- Lớp nhà trong cùng (lớp nhà 3) là khu phụ gồm vệ sinh và kho.

Với cách  bài trí không gian như vậy ngôi nhà hình ống này có điều kiện tiện nghi rất tốt về thông gió và lấy sáng. Đây là 1 trong những ưu điểm lớn trong việc bố cục không gian nhà ở truyền thống Việt Nam nói chung và của phố cổ Hà Nội nói riêng trong việc thích nghi và phù hợp với điều kiện khí hậu địa phương.

- Kết cấu chịu lực chính là gỗ, gồm hệ thống cột gỗ và dầm gỗ, vì kèo gỗ tạo. Tường bao là tường gạch với kỹ thuật xây dựng truyền thống (gạch đặc đúc thủ công xây bằng vữa vôi: vôi và cát, không sử dụng xi măng). Hệ thống kết cấu mái là hệ thống vì kèo gỗ theo kiểu nhà dân gian truyền thống (chồng rường). Mái dốc 2 phía được lợp bằng ngói ta, 2 lớp ngói: lớp ngói lót là ngói chiếu và lớp ngói trên là ngói mũi hài. 

- Các chi tiết kiến trúc của ngôi nhà rất đặc trưng của kiến trúc nhà truyền thống phố cổ Hà nội được chú ý đến đầu tiên là mặt đứng chính với hình thức đối xứng, cửa đi chính ở giữa (cửa tâm) và 2 bên là cửa sổ rộng làm nơi bán hàng. Cửa sổ rộng giáp mặt phố là cửa lùa bằng gỗ ván đặc theo chiều đứng tháo ra được; còn các cửa đi là cửa bức bàn có ngõng cửa có then cài. Cửa đi tầng 2 lớp nhà 2 được thiết kế theo kiểu cửa thượng song hạ bản có trang trí hình khắc gỗ tứ quý.

Phía trên cửa đi và cửa bán hàng là phần ô cửa thông thoáng trang trí bằng các con tiện gỗ chạy suốt mặt tiền. Vì vậy khi phần cửa dưới được đóng toàn bộ thì phần cửa thoáng trên chính là để lấy sáng và thông gió cho toàn nhà. Trên tầng 2 có 2 cửa số nhỏ đối xứng. Lan can cầu thang cũng được trang trí bằng con tiện gỗ hình thức giống như con tiện ở ô thoáng mặt tiền. Các lan can ngoài trời được xây bằng trụ gạch và trang trí bằng gạch men hình hoa chanh trạm thuỷ.

Mái hiên trước phòng ngủ tầng 2 có kết cấu vì mái hình thức vì vỏ cua theo kiến trúc của Trung Quốc.

Ở 2 đầu đỉnh mái ngói có hai khối nhô lên hình chữ nhật xây bằng gạch là trụ đấu mái. Tường hồi giáp với 2 nhà liền kề xây cao 1m  dật tam cấp để trang trí, giảm chiều cao cũng như để chống cháy lan và chống thấm. Từ bờ nóc mái tới trụ đấu mái, tường giật cấp đều trang trí gờ chỉ.

- Phần nội thất của ngôi nhà được bài trí bởi đồ gỗ cổ đặc biệt là phòng khách và phòng ngủ. Với ý nghĩa phòng khách là nơi trang trọng nên gia chủ đã đặt bàn thờ tổ tiên  với hoành phi câu đối và bộ trường kỷ tiếp khách; trên tường treo bộ tứ quý khắc gỗ.

Phòng ngủ cũng được bài trí một cách cẩn thận, gọn gàng để tiết kiệm diện tích với bộ sập gụ, tủ chè và 1 bộ bàn ghế để gia chủ uống nước, ăn và tiếp khách thân thiết. Phía trước và phía sau phòng ngủ có hiên và sân trời là nơi gia chủ ngồi uống trà  hay chơi cờ tướng.

- Về trang trí nghệ thuật kiến trúc:

Trang trí nghệ thuật nhà 87 Mã Mây tập trung chính trên vì vỏ cua hiên khối nhà 2 tầng. Đề tài trang trí là các văn thực vật được chạm nổi khối, mềm mại, mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XIX. Ngoài ra nghệ thuật trang trí còn được thể hiện trên diềm mái và hệ thống cửa bức bàn.

Đình Đồng Lạc 38 Hàng Đào

Đình Đồng Lạc hiện nằm trong hệ thống kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng trong khu Phố cổ Hà Nội vì vậy trước khi đi vào khảo tả cụ thể di tích, chúng ta tìm hiểu hệ thống kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng trong khu Phố cổ Hà Nội.
Vài nét khái quát về hệ thống kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng trong khu Phố cổ Hà Nội:

Kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng trong khu Phố cổ rất phong phú; đó là các: đình, đền, chùa... theo kiểu kiến trúc truyền thống của người Việt (hiện còn 67 công trình). Ngoài ra còn có nhà thờ đạo Hồi (quen gọi là chùa Tây Đen). Nhà thờ Tin lành (cạnh chợ Hàng Da)... các đạo quán người Hoa, chùa Tầu... Các thể loại công trình kiến trúc này đều có những đặc trưng riêng của mình.

Các di tích thuộc lọại hình này đa số có kết cấu gỗ, mặt bằng kiến trúc theo kiểu chữ công, chữ tam, chữ quốc,... Bộ khung nhà do các vì gỗ kết cấu thường là theo kiểu chồng rường giá chiêng, vì kèo, vì vỏ cua. Trên một số kiến trúc gỗ được trạm khắc và gắn các mảng trang trí đẹp.

Một số di tích đình tổ nghề thì có mặt bằng và kết cấu xây dựng đơn giản hơn. Mặt bằng tại các di tích này thường ảnh hưởng của hình thức nhà ống hoặc tương tự.

- Những di tích thờ tổ nghề:

Ngoài hai di tích là đình Kim Ngân (42 Hàng Bạc - xem hồ sơ) và đình Trương Thị (50 Hàng Bạc) có bố cục không gian và kết cấu kiến trúc truyền thống, thì các di tích thờ tổ nghề như đình Hoa Lộc, đình Lò Rèn, đình Tú Thị, đình Hà Vĩ đều có bố cục mặt bằng đơn giản, kết cấu kiến trúc mang dáng dấp như một kiến trúc dân dụng, thậm trí được xây hai tầng, với ý thức tôn vinh tổ nghề, đồng thời cũng tận dụng diện tích để mở mang sản xuất hoặc trao đổi hàng hoá như  đình Hoa Lộc, đình Lò Rèn, đình Tú Thị, đình Kim Ngân, đình Hà Vĩ.

- Chùa:

- Chùa chính có mặt bằng hình chữ “công” với bộ khung nhà bằng gỗ, có các vì được kết cầu kiểu “chồng rường, giá chiêng”, “vì kèo”, vì ván mê (xem phần V hồ sơ chùa Cầu Đông); Mặt bằng hình chữ “đinh” với bộ khung nhà làm bằng vật liệu hiện đại, kết cấu giả các thức truyền thống (xem phần V hồ sơ chùa Thái Cam.

- Các kiến trúc phụ bao gồm nhà mẫu, nhà tổ (chùa Thái Cam), hoặc thêm cả hành lang (chùa Cầu Đông). Có chùa chỉ có kiến trúc chùa chính (chùa Vĩnh Trù). Chùa nào cũng có tam quan.

- Các trang trí trên kiến trúc không nhiều, tập trung ở chùa Cầu Đông và nhà mẫu chùa Thái Cam. Đề tài trang trí là các linh vật, hoa, lá, quả. Nghệ thuật trang trí mang phong cách thời Nguyễn.

- Đình, đền:

 

- Phần lớn không gian trải theo chiều sâu, gồm ba lớp nhà. Những di tích có phương đình: Đền Bạch Mã, đình Thanh Hà, đền Hoả Thần. Bộ khung nhà đều làm bằng gỗ, với các bộ vì được kết cấu theo kiểu “chồng rường con nhị”, “chồng rường hai hàng chân” (đền Bạch Mã, đình Thanh Hà), kiểu “vì kèo” (đình Đức Môn). Trong một số kiến trúc có vòm “vỏ cua” nối các nếp nhà (đền Bạch Mã, đình Hương Tượng, đình Đức Môn).

- Trang trí trên kiến trúc rất phong phú, đặc biệt tại nhà phương đình. Đề tài trang trí là các linh vật, văn thực vật, văn triện và tượng nghê trên kiến trúc phương đình. Những mảng trang trí này mang tính thẩm mỹ cao, đều thuộc nghệ thuật thời Nguyễn.

 - Hội quán:

Hai hội quán có hai phong cách riêng biệt.

Hội quán Phúc Kiến (40 - Lãn Ông) được xây dựng kết hợp cả hai phong cách kiến trúc - nghệ thuật Trung Hoa - Việt Nam. Bộ khung nhà cũng được làm bằng gỗ với các thức vì “chồng rường”, ”, “chồng rường giá chiêng hai hàng chân”, đặc biệt là hệ “củng tam phương” được sử dụng tại nhà phương đình, hệ thống dép dỡ hoành vươn dài tại tam quan và nhà phương đình. Đây là một di tích kiến trúc đẹp, độc đáo (xem hồ sơ phần V hồ sơ hội quán Phúc Kiến).

Trái lại, hội quán Quảng Đông (22 Hàng Buồm) được xây dựng với kiểu thức, chất liệu khác. Mặt bằng xây dựng lớn bao gồm nhiều nếp nhà tạo thành. Sảnh chính được làm như kiểu hội trường mang kiểu dáng phương tây. Cung thờ chính có bộ khung gỗ, nhà được xây cao, vì  “thượng giá chiêng hạ kẻ”, các hoạ tiết trang trí trên kiến trúc mang phong cách nghệ thuật Quảng Đông (Trung Quốc). Hai bên kiến trúc chính là các kiến trúc phụ cũng có quy mô đồ sộ.

-  Quán:

Được xây dựng trên mặt bằng lớn, kiến trúc kết hợp cả nguyên liệu, kết cấu hiện đại và nguyên liệu, kết cấu truyền thống. Kiến trúc, trang trí ở đây được tập trung ở nghi môn, gác chuông (xem phần V hồ sơ di tích quán Huyền Thiên).

2. Khảo tả di tích đình Đồng Lạc:

Đình Đồng Lạc đã bị phá huỷ trong thời gian chiến tranh, bên cạnh đó ngôi đình cũng đã được tu sửa nhiều lần vì vậy kiến trúc của ngôi đình không còn nguyên vẹn như  thời kỳ đầu xây dựng mà chỉ được nhìn thấy qua những dấu tích còn lại hiện nay.  Xin miêu tả kiến trúc hiện nay của đình Đồng Lạc.

Nhìn tổng thể đình Đồng Lạc (đình chợ bán yếm lụa), số 38 Hàng Đào là một trong những ngôi đình đặc trưng trong hệ thống kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng của khu Phố cổ Hà Nội.

Thửa đất có dạng hình ống “đuôi chuột” vì mặt bằng dạng “thót hậu”, mặt tiền có chiều rộng 6m và phần trong cùng thót lại còn có 1, 1m. Diện tích khu đất là 188, 9 m2. Chiều sâu là 51,65m.

Mặt bằng bố cục theo nguyên tắc nhà ống truyền thống phố cổ Hà nội 

Như vậy, không gian kiến trúc của ngôi nhà được phân chia bởi từng lớp nhà, giữa các lớp nhà có sân trong. Các sân trong có ý nghĩa để cải tạo sự tiện nghi cho ngôi nhà về thông gió là lấy sáng. Đây là một trong những ưu điểm lớn trong việc bố cục không gian nhà truyền thống Việt nam nói chung và của khu Phố cổ Hà Nội nói riêng trong việc thích nghi và phù hợp với điều kiện khí hậu địa phương.

- Cổng ngoài của ngôi đình được xây bằng gạch cao 6, 1 mét, rộng 6 mét. Mặt trước và mặt sau cổng đắp nổi chữ Hán tên của ngôi đình (Đồng Lạc đình). Thân trụ hai bên đắp gờ nổi, đỉnh trụ xây trang trí hình bông sen. Mái cổng được gia cố và sửa chữa trên cơ sở hiện trạng.

- Lớp nhà 1 và 3: qui mô xây dựng 2 tầng, là phần nhà được xây dựng cải tạo mới, hình thức kiến trúc mặt đứng hài hoà với không gian cổ về chiều cao, chi tiết trang trí kiến trúc cũng như về mầu sắc và chất liệu của vật liệu xây dựng. Kết cấu của 2 lớp nhà này sử dụng là kết cấu bê tông cốt thép, sàn lát gỗ. Kết cấu mái vẫn được sử dụng kết cấu vì kèo gỗ, mái lợp ngói ta. Cửa đi và cửa sổ gỗ được thiết kế theo hình thức kiến trúc phỏng cổ.

Chiều cao của 2 nhà mới xây thấp hơn so với nhà hiện có (phần đình), vừa để tạo hình ảnh “mái ngói lô xô” cũng như thể hiện tính tôn linh với ngôi đình hiện có.

- Lớp nhà 2: đây là phần thờ chính của ngôi đình được cải tạo nguyên trạng trên cơ sở ngôi đình đã được cải tạo lần cuối cùng năm 1941. Diện tích là 27,6 m2; qui mô 2 tầng. Tầng 1 trước khi cải tạo là nơi ở của gia đình sinh sống tại đây. Hiện nay được sử dụng là phòng làm việc của Ban quản lý Phố cổ Hà Nội. Tầng 2 của lớp nhà này là gian thờ còn lại của ngôi đình.

Kết cấu của  ngôi nhà này  là kết cấu gạch chịu lực, các trụ cột tầng 1 được trang trí hình thức ảnh hưởng  kiểu kiến trúc thuộc địa Pháp. Tầng 2 là cột, dầm và sàn gỗ với hệ thống kết cấu mái là vì kèo gỗ

Trên thân trụ tường gạch ở tầng 1 và tầng 2 đắp nổi bằng vôi vữa câu đối chữ Hán. Đặc biệt trên dầm cột tầng 2 có trang trí 2 đầu rồng, đây là dấu tích còn sót lại của kiến trúc xưa của ngôi đình.

Đốc mái đình khắc hàng chữ Hán năm trùng tu ngôi đình “Ngày mùng 10 tháng 7 năm Tân Tỵ niên hiệu Bảo Đại 15 (1941)”

Từ lớp nhà 1 đi theo hành lang nhìn sang bên phải là tấm bia đá khắc chữ Hán có niên đại hiệu Tự Đức Bính Thìn (1856) ghi việc đình được xây dựng từ thời Lê (thế kỷ thứ XVII) được gắn trên tường. Đây là dấu tích còn lại để minh chứng cho sự tồn tại của ngôi đình trong lịch sử phát triển của khu Phố cổ Hà Nội.

Không gian của phần thờ chính ngôi đình trên tầng 2 được chia làm 2 không gian nhỏ ngăn cách bởi vách ngăn gỗ 3 cửa với hình thức trang trí cửa được tìm thấy trong ngôi đình cũ, kiểu thượng song hạ bản. Phía trên là ô thoáng trang trí bằng các con tiện gỗ chạy suốt chiều rộng cửa. Gian ngoài  được gọi là hiên dùng làm nơi tiếp khách, uống trà có đặt một bộ trường kỷ. Gian trong (phía sau lớp cửa gỗ) là gian thờ chính. Sát tường hậu của gian thờ đặt một hương án gỗ, trên đặt đồ thờ tự gồm bát hương, khay đài, quả nước.

Nhìn chung, do nhiều tác động của yếu tố lịch sử,  xã hội nên kiến trúc đình Đồng Lạc không còn nhiều, song lại thuộc đặc trưng chung của hệ thống đình thờ trong khu vực Phố cổ Hà Nội. Các di vật và nghệ thuật trạm khắc không nhiều, nhưng đều là sản phẩm đặc trưng của nghệ thuật thời Lê.

(Theo datnuocviet)

  • Sa Pa diễm lệ
  • Mo So kỳ ảo
  • Đàn Tiên Cái Khế - di tích đạo tu tiên xưa ở Cần Thơ
  • Lễ hội Sayangva của người Chơro gắn kết cộng đồng
  • Một điểm du ngoạn cần cho giới trẻ
  • Lễ hội chém trâu tế thần của người Chăm Lạc Tánh
  • Đặc sắc rối Tày
  • Khăn piêu, xôi nếp, hoa ban...
  • Háo hức lễ hội tịch điền
  • Nét thân thương của làng quê Việt
  • Kiến trúc dinh cơ phủ đệ
  • Xuồng ba lá văn hoá sông nước Nam Bộ
  • Huyền ảo thung mây
 tinkinhte.com
 tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com