Đầu ra xuất khẩu đang gặp khó khăn khiến giá lúa giảm nạnh. Ảnh: T.L |
Đầu ra cho gạo xuất khẩu đang gặp khó khăn do động thái thăm dò, chờ giá giảm của các bạn hàng lớn, đặc biệt là Philippines. Điều này khiến nhiều doanh nghiệp xuất khẩu gạo trong nước không mạnh tay mua lúa, dẫn đến giá lúa đông xuân ở ĐBSCL, đang vào thu hoạch rộ giảm mạnh từ đầu tháng 3. Trong tình thế này, nhiều ý kiến cho rằng đã đến lúc cần có sự can thiệp của Chính phủ.
Giá lúa giảm mạnh
Ông Phạm Quang Diệu, kinh tế trưởng của Công ty cổ phần phân tích và dự báo thị trường Việt Nam (Agromonitor), cho biết đầu ra các hợp đồng thương mại hiện nay đang khá bế tắc, ngoài các hợp đồng cấp chính phủ từ đầu năm với giá tốt đã gần như kết thúc. Các công ty thương mại Philippines và tổ chức kinh doanh nông sản lớn, vốn đang theo sát diễn biến “sức khỏe” của doanh nghiệp và nông dân các nước sản xuất gạo, tiếp tục chờ giá gạo “bắt đáy” để mua vào.
Theo ông Võ Hùng Dũng, Giám đốc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) chi nhánh Cần Thơ, không chỉ đầu ra thiếu hụt mà lãi suất cao (trung bình 18-20%/năm), cùng tỷ lệ hao hụt trong dự trữ cao cũng khiến doanh nghiệp không dám mua mạnh để trữ, kể cả một số doanh nghiệp tham gia chương trình mua tạm trữ 1 triệu tấn gạo của Hiệp hội lương thực Việt Nam (VFA) tiến hành hồi đầu tháng 3.
Bế tắc trên thị trường xuất khẩu đã “dắt dây” giảm giá lúa trong nước. Ở ĐBSCL giá lúa tiếp tục giảm. Chiều 19-3, giá lúa hàng hóa tiếp tục giảm thêm 100-200 đồng/kg (tùy loại). Theo các thương lái, giá lúa IR 50404 (khô) ở nhiều tỉnh thành được mua với giá 5.100-5.300 đồng/kg, lúa hạt dài (OM 4900) từ 5.400-5.600 đồng/kg vào đầu tuần giảm xuống còn 5.000-5.100 đồng/kg (IR 50404), 5.300-5.400 đồng (OM 4900). Trong khi đó, giá gạo nguyên liệu để làm gạo 5% tấm hiện 7.100-7.250 đồng/kg, gạo 25% tấm 6.700-7.000 đồng/kg, giảm trung bình 100-200 đồng/kg.
Mặc dù giá lúa chưa giảm đến mức 5.000 đồng/kg, ngang với cam kết của VFA đảm bảo được lợi nhuận cho nông dân nhưng theo ông Dũng, đã đến lúc Chính phủ can thiệp, mua hết lượng lúa hàng hóa còn lại của vụ đông xuân (tổng sản lượng ước tính vào khoảng 10 triệu tấn) để giữ giá lúa trong nước khỏi sụp đổ, sau đó trữ trong hệ thống kho quốc gia.
Theo ông Phạm Quang Diệu, ngoài việc can thiệp, Chính phủ cần cân nhắc biện pháp thực hiện. Ví dụ như nếu chọn cách hỗ trợ lãi suất cho doanh nghiệp mua tạm trữ như trước đây thì cần cân nhắc lựa chọn các kênh dẫn vốn, đi cùng với đó là đội ngũ giám sát chặt chẽ để đảm bảo doanh nghiệp không sử dụng các đồng vốn được hỗ trợ lãi suất cho các mục đích khác, như một số lần triển khai mua tạm trữ có hỗ trợ lãi suất trước đây.
Hợp đồng chính phủ bộc lộ hạn chế
Những tháng gần đây, đặc biệt trong tháng 3, phía Philippines mà cụ thể là Cơ quan lương thực quốc gia (NFA) liên tục đưa ra thông tin về việc giảm lượng gạo nhập khẩu từ khối lượng kỷ lục 2,5 triệu tấn (năm 2010) xuống còn 860.000 tấn. Trong đó, NFA từ ngày 23-3 sẽ giao cho các công ty thương mại mua trên 600.000 tấn. Tổ chức này cũng cho biết bên cạnh nguồn gạo Việt Nam sẽ chào mua từ nhiều nguồn như Thái Lan, Campuchia.
Trước việc bị bạn hàng lớn như Philippines “uy hiếp”, gián tiếp dẫn đến việc VFA liên tục hạ giá sàn xuất khẩu gạo, theo ông Diệu, Chính phủ chứ không phải hiệp hội cần mạnh dạn mua vô lúa hàng hóa để giữ giá lúa trong nước lẫn giá xuất khẩu. Sau đó để doanh nghiệp lớn thương lượng cụ thể cho từng hợp đồng.
Việc lệ thuộc trong thời gian dài vào các hợp đồng chính phủ ở một số thị trường tập trung như Phillipines, Indonesia, Malaysia… đang dần dần bộc lộ nhiều hạn chế như khiến doanh nghiệp mất tính chủ động, nhạy bén trên thương trường. Nhiều công ty lương thực các tỉnh thường chỉ chờ nhận chỉ tiêu các hợp đồng chính phủ đàm phán trước đó từ các Tổng công ty lương thực 1 và 2 rồi mới tiến hành mua lúa gạo, chế biến và giao hàng.
Ông Diệu dẫn ra trường hợp của Philippines, quốc gia thường được nhắc đến bởi các hợp đồng nhập khẩu gạo cấp chính phủ, thay đổi chiến lược nhập khẩu gạo và lập tức gây ách tắc cho các doanh nghiệp xuất khẩu gạo trong nước.
Bên cạnh đó, thỏa mãn thị trường tập trung vốn thường đòi hỏi các loại gạo phẩm cấp thấp cũng làm giảm khả năng cạnh tranh về chất lượng của hạt gạo Việt Nam.
“Khi đầu ra chỉ cần thỏa mãn với phẩm cấp thấp thì không thể cải tiến quy trình từ đầu đến cuối như chọn giống cho đến, kỹ thuật canh tác, công nghệ chế biến. Điều này lý giải vì sao giá gạo Việt Nam luôn rẻ hơn gạo Thái Lan, kể cả khi cùng chủng loại”, ông nói.
(Theo Thời báo kinh tế Sài Gòn)
Chuyển nhượng, cho thuê hoặc hợp tác phát triển nội dung trên các tên miền:
Quý vị quan tâm xin liên hệ: tieulong@6vnn.com