Ngày 26/10/2006, người đứng đầu Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đã vung tay, gõ búa chấm dứt quá trình đàm phán kéo dài suốt 9 năm, nếu kể cả thời gian chuẩn bị là 11 năm của Việt Nam. Từ thời khắc đó, cánh cửa vào sân chơi kinh tế thương mại lớn nhất hành tinh đã mở toang đối với Việt Nam.
Trao đổi với Vietnam+ bên lề Hội thảo “5 năm là thành viên WTO, Việt Nam đã và sẽ ở đâu trong hội nhập” do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tổ chức, sáng 29/2, tại Hà Nội, ông Lương Văn Tự, nguyên trưởng đoàn đàm phán thương mại của Chính phủ chia sẻ, tham gia sân chơi WTO cơ hội lắm nhưng thách thức cũng nhiều, cái khó khăn nhất là chúng ta có dám tự thay đổi để lớn hay không!
Là người tham gia từ vòng đàm phán đầu tiên, xin ông cho biết Việt Nam đã có những thay đổi như thế nào sau 5 năm gia nhập WTO?
Ông Lương Văn Tự: Tôi nhớ rằng lúc bắt đầu đàm phán gia nhập WTO thì thu nhập trung bình của Việt Nam là 400 USD/người/năm và kết thúc đàm phán gia nhập WTO một thời gian đã nâng thu nhập bình quân ngang với các nước phát triển trung bình ở mức 1.000 USD/người/năm, đến bây giờ đã là trên 1.200 USD/người/năm.
Tất nhiên, không phải chỉ mỗi yếu tố mở cửa thị trường mà thu nhập nâng lên mà là sự cố gắng của toàn dân, đặc biệt là các doanh nghiệp đã tận dụng được sự mở rộng thị trường để tăng đầu tư phát triển.
Khi kết thúc đàm phán gia nhập WTO thì thu hút đầu tư nước ngoài cũng tăng vọt, lên trên 60 tỷ USD và là một đóng góp quan trọng cho nền kinh tế.
Tiếp đến, việc gia nhập WTO đã tạo ra một hệ thống pháp luật mới để phục vụ cho chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh. Người dân và doanh nghiệp đều có tư duy mới, không chỉ bó hẹp ở thị trường nội địa mà là toàn cầu.
Điểm nổi bật nhất chính là xuất khẩu của Việt Nam tăng liên tục, sau 5 năm kim ngạch xuất khẩu tăng 97,7%, năm 2011 đã đạt 96,9 tỷ USD.
Dịch vụ phân phối, bán lẻ phát triển mạnh, sự ra đời của các siêu thị, trung tâm thương mại và hàng trăm cửa hàng tiện lợi đã làm thay đổi diện mạo của thương mại bán lẻ, thay đổi thói quen mua sắm của người tiêu dùng theo hướng văn minh, hiện đại và đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế-xã hội.
Ông nói nhiều đến cơ hội, vậy thách thức đặt ra trong thời gian tới sẽ như thế nào và doanh nghiệp cần phải quan tâm đến điều gì?
Ông Lương Văn Tự: Theo một cuộc thăm dò mới nhất của VCCI thì tất cả các doanh nghiệp Việt Nam đều có bước phát triển rất mạnh. 3/4 đưa ra ý kiến tốt, một nửa trong 1/3 không có ý kiến và phần còn lại cho rằng không có tác động lớn.
Như thế cho thấy đa số là tốt và hầu hết các doanh nghiệp đều tán thành việc gia nhập WTO tạo ra một sân chơi lớn cho chính mình. Tuy nhiên, cái khó nhất là trong thời kỳ mở và phát triển nhanh, mạnh hơn trước khiến trình độ quản lý của nhiều doanh nghiệp không theo kịp.
Còn với nền kinh tế vĩ mô, mỗi một biến động trên thế giới đều ảnh hưởng đến Việt Nam, do vậy việc quản lý điều hành cũng phải nhanh nhạy, gắn với thế giới chứ không phải như trước nữa.
Thứ hai, việc quản lý trong điều kiện mở cũng phải bằng luật và kiểm tra, kiểm soát chứ không thể dùng các biện pháp hành chính đơn thuần, đây cũng là cái khó vì việc thay đổi cách quản lý không thể chỉ làm một đêm là xong mà cần có thời gian.
Khó nữa là cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam với doanh nghiệp nước ngoài cũng mạnh hơn, nhưng hiện nay đang có một xu hướng là nhiều doanh nghiệp Việt Nam phát triển nhanh thì họ có vốn, có kinh nghiệm và quay sang mua lại các doanh nghiệp FDI. Đây là cuộc chơi không mới trên thế giới nhưng nó cũng là tín hiệu tích cực trong sự thay đổi chiến lược của doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập.
Một điều cần phải lưu ý là, ta có được thị trường toàn cầu thì ta cũng phải mở cửa thị trường cho họ. Nhập siêu trong những năm qua vì vậy cũng tăng liên tục: Năm 2006 là 5,065 tỷ USD, năm 2007 là 14,121 tỷ USD, năm 2008 là 18,029 tỷ USD, năm 2009 là 12,853 tỷ USD và năm 2011 là 9,844 tỷ USD, giảm khoảng 22% so với năm 2010 và bằng 10,15% kim ngạch xuất khẩu.
Nhập siêu tăng chủ yếu là nhập máy móc thiết bị và nguyên nhiên vật liệu phục vụ cho sản xuất trong nước, nhập cho tiêu dùng chỉ chiếm 7%. Nhưng nếu phân tích sâu và tách tác động của việc gia nhập WTO với Hiệp định mậu dịch tự do Asean CEPT/AFTA và Asean + 6 thì nhập siêu tăng trưởng trong những năm qua chủ yếu là từ các nước này và do lộ trình cắt giảm thuế nhanh và sâu.
Việc giảm thuế nhiều mặt hàng ảnh hưởng đến việc cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam, vậy doanh nghiệp nên tận dụng các cơ hội này như thế nào?
Ông Lương Văn Tự: Nếu theo lộ trình gia nhập WTO thì không có chuyện thuế bằng 0, do vậy thuế đang ở mức trung bình là 17,4% khi bắt đầu gia nhập và khi kết thúc hành trình đó rút xuống còn 13,4% thì mức giảm của thuế khi gia nhập WTO là không lớn.
Nhưng ta phải quan tâm đến chuyện mức thuế giảm trong AFTA và ASEAN mở rộng lúc đó thuế mới xuống 0%, sẽ là khó khăn và thách thức nhất đối với doanh nghiệp trong nước.
Tuy nhiên, đây cũng là cơ hội vì chúng ta đi sâu mà rút được kinh nghiệm để đẩy nhanh đầu tư và gia nhập thị trường ASEAN và ASEAN mở rộng sẽ nâng được năng lực cạnh tranh lên rất nhiều.
Có thể thấy, nhiều doanh nghiệp đã tận dụng được thị trường rất tốt, như thị trường dệt may, thủy hải sản và nông sản, ngược lại nhiều thị trường khác do chưa phát triển được sản xuất nên chưa tận dụng được nhiều nhưng bù lại nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lại đang có khả năng thay thế.
Đơn cử những doanh nghiệp về điện tử họ sản xuất ở Việt Nam nhưng không phải bán ở thị trường Việt Nam mà tranh thủ những lợi thế của Việt Nam về nhân công, ưu đãi thuế trong nội khối ASEAN để xuất khẩu.
Do vậy, để có một chiến lược dài hơi, theo tôi cần xây dựng được lộ trình để phấn đấu 5-10 năm nữa phải xuất siêu, có một chiến lược rõ ràng đối với những mặt hàng xuất khẩu chủ lực nhằm tăng giá trị thay vì số lượng.
Tiếp đến, cần phải đa dạng hóa “rổ ngoại tệ" với các thị trường có kim ngạch xuất nhập khẩu lớn như Trung Quốc, Nhật Bản, EU, các nước ASEAN.
Đó là việc làm không dễ nhưng hãy nhìn các quốc gia trong khu vực như Singapore, Thái Lan, Bruney để mạnh dạn có chiến lược và bước đi phù hợp cho đồng tiền Việt Nam trong quá trình nâng cao vị thế và khả năng chuyển đổi sang đồng tiền khác thì vấn đề đô la hóa sẽ giảm và vị thế tài chính của đồng tiền Việt Nam sẽ tăng lên.
Theo kết quả lấy phiếu tín nhiệm các chức danh, cán bộ chủ chốt do Hội đồng Nhân dân thành phố Hà Nội công bố chiều 4/7, ông Nguyễn Đình Đức, Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Nội là người có số phiếu “tín nhiệm cao” ít nhất trong số 18 cán bộ lãnh đạo Hà Nội, với 27 phiếu. Ông Đức cũng là người có số phiếu “tín nhiệm thấp” nhiều nhất với 23 phiếu.
Trong một cuộc trò chuyện với các cán bộ, nhân viên nữ công tác tại Bộ Ngoại giao, bà Tôn Nữ Thị Ninh đã chia sẻ những bài học kinh nghiệm của bản thân trong phát huy thế mạnh của nhà ngoại giao nữ.
Tại hội thảo chuyên đề về chính sách tiền tệ và lạm phát mục tiêu cuối tuần qua, ông Nguyễn Đức Hưởng, Phó chủ tịch Hội đồng Quản trị Ngân hàng Bưu điện Liên Việt (LienVietPostBank), đưa ra một quan điểm trái chiều.
Tại cuộc họp báo của Văn phòng Quốc hội về kỳ họp thứ 5, các câu hỏi chuyển tới Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc chủ yếu tập trung vào nội dung lấy phiếu tín nhiệm mà Quốc hội dự kiến sẽ dành khoảng 3 ngày thực hiện công việc này.
Ngày 16/5, tại buổi họp báo về 2 dự án Tổ hợp bauxit-alumin (nhôm) Lâm Đồng và dự án alumin Nhân Cơ (Đăk Nông), TS Nguyễn Tiến Chỉnh - Trưởng Ban Khoa học công nghệ và Chiến lược phát triển (thuộc Vinacomin) khẳng định, 2 dự án có hiệu quả về kinh tế. Theo tính toán sẽ nộp ngân sách 400 tỷ đồng/năm.
Tôi có nhiều người bạn quốc tế có trình độ cao, có thu nhập lớn, trong đó có những người là tỷ phú, họ cực kỳ ngạc nhiên trước sự tiêu xài của không ít người Việt.
Nếu được chấp thuận cho đầu tư, nhiều khả năng sắp tới Việt Nam sẽ đón nhiều dự án casino với số vốn lên tới hàng tỷ USD. Liệu Việt Nam có nên "mở cửa" cho các dự án casino? Trò chuyện với GS.TS Nguyễn Mại, Chủ tịch Hiệp hội DN đầu tư nước ngoài (VAFIE).
Khẳng định quyết tâm kiềm chế lạm phát của Chính phủ là hoàn toàn đúng đắn, nhưng TS. Bùi Đức Thụ, Ủy viên Thường trực Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội, cho rằng với cách thắt chặt tiền tệ hiện nay sẽ dẫn đến sự ngột ngạt cho cả nền kinh tế.
TS Trần Đình Thiên cho rằng, với mục tiêu lạm phát dưới 10% nhưng lạm phát phải giảm sâu hơn xuống mức 5 - 7% thì doanh nghiệp mới trụ được trong năm "cắn răng vượt khó" này.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Với sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 cùng tham vọng và thực lực của Trung Quốc cũng như những tuyên bố bất chấp dư luận quốc tế của giới lãnh đạo nước này trong thời gian qua đã đặt Việt Nam trước việc phải chấp nhận một thực tế là trong giai đoạn tới, đất nước sẽ phải phát triển kinh tế trong điều kiện không có có môi trường hoàn toàn thuận lợi do những lo ngại về bất ổn.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Các nước lớn đóng vai trò rất quan trọng trong việc dàn xếp các cuộc xung đột mang tính quốc tế và nhiều khi họ sử dụng các vấn đề của thiên hạ để phục vụ cho những tính toán của riêng mình
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
Sau gần 25 năm đổi mới, bộ mặt kinh tế, xã hội Việt Nam đã khác hẳn. So với 10 năm trước, đời sống của dân chúng nói chung hiện nay được cải thiện nhiều, vị trí của Việt Nam trên thế giới cũng tăng lên đáng kể. Rõ ràng ở đây có vấn đề hiệu suất phát triển, có khả năng bỏ lỡ các cơ hội mà nguyên nhân sâu xa nằm ở cơ chế, ở sự chậm hoàn thiện cơ chế thị trường, ở năng lực nắm bắt cơ hội, và việc thực thi các chính sách, vì các điều kiện về bối cảnh khu vực và cơ hội phát triển Việt Nam không bất lợi so với các nước lân cận.
Bàn cờ kinh tế VN bị chia thành rất nhiều mảnh nhỏ. Các mảnh này thường bị chi phối bởi các nhóm độc quyền và đặc quyền. Điểm yếu cơ bản nhất trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam là tăng trưởng chủ yếu nhờ vào việc bán tài nguyên và gia công trình độ thấp, nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà nước vốn kém hiệu quả làm chủ đạo.
Việt Nam tăng 18 bậc lên vị trí thứ 71 trong bảng chỉ số về môi trường thương mại toàn cầu năm 2010 vừa được WEF công bố. Trong tổng số 125 nền kinh tế được WEF xem xét năm nay Singapore và Hồng Công tiếp tục dẫn đầu thế giới về phương diện tạo điều kiện thuận lợi cho tăng cường trao đổi thương mại toàn cầu.
Hiện nay quy mô của các vùng kinh tế trọng điểm (VKTTĐ) đã mở rộng đến gấn 25% diện tích và chiếm khoảng 70% thu nhập kinh tế của cả nước. Một vấn đề đặt ra là: quan điểm ngày càng mở rộng quy mô diện tích của các VKTTĐ của Việt Nam có hợp lý hay không? Làm thế nào để các VKTTĐ phải thực sự là động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế của cả nước ,có một thế đứng vững chắc trong tương lai nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
Ngày 17-5, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) đã tổ chức hội thảo tham vấn cho dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 5 năm 2011-2015, với sự tham gia của đại diện các cơ quan quốc tế. Nội dung chủ yếu nêu lên bức tranh toàn cảnh về KT-XH, cùng những vấn đề liên quan khi nước ta bước vào giai đoạn "đệm" chuyển tiếp để cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020.
Bên cạnh những vấn đề quản lý đô thị, trung tâm hành chính quốc gia… thì bài toán kinh tế là băn khoăn lớn nhất khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về đồ án quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, sáng 11/5.
Kể từ khi khu kinh tế ven biển đầu tiên là Chu Lai được thành lập năm 2003, đến nay đã có 14 khu kinh tế biển được thành lập, gồm 2 khu ở đồng bằng sông Hồng, 10 khu ở vùng duyên hải miền Trung và 2 khu ở miền Nam. Theo Quy hoạch phát triển các KKT biển đến năm 2020 cả nước sẽ có 15 khu kinh tế biển với kinh phí đầu tư khoảng 162.000 tỷ đồng và tạo việc làm cho khoảng 500.000 ngàn người.
Tại bài viết mới nhất trên blog của mình, TS. Trần Công Hòa đã phân tích và đưa ra một số khuyến nghị về hoạch định chính sách và điều hành nền kinh tế 2010: tiếp tục giảm giá VND; cắt giảm chi tiêu công; tăng tính độc lập của NHNN; kiên quyết cho phá sản những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ; điều chỉnh chính sách thuế ở một số lĩnh vực theo phương thức lũy tiến; phát triển công nghiệp phụ trợ;...
Tăng trưởng luôn luôn là một cuộc trường chinh. Vì vậy, không thể chỉ vì tăng trưởng ngắn hạn mà hy sinh sự ổn định và bền vững trong dài hạn. Cổ nhân ngày xưa có câu “dục tốc bất đạt”, không những thế cái giá phải trả cho kinh tế bất ổn rất lớn, chỉ cần nhìn sang mấy nước xung quanh như Thái Lan, Indonesia hay Philippines là có thể thấy rất rõ điều này.
Cải cách cơ cấu là một đòi hỏi nghiệt ngã đối với tất cả các nước muốn tiến bước trên con đường đi đến phồn vinh. Thế nhưng, có nhiều nước không chủ động vượt qua đòi hỏi này khi tình thế kinh tế còn thuận lợi và thường bắt đầu nó quá muộn khi đất nước đã rơi vào khủng hoảng. Điều này lý giải tại sao nhiều nước có khởi đầu tốt nhưng rồi sa lầy trong cạm bẫy của mức thu nhập trung bình ...
Năm 2009, tăng trưởng GDP đạt 5,32%; lạm phát được kiềm chế dưới 7%; hệ số ICOR là 5, 16. Những con số này có thể cho cảm nhận kinh tế vĩ mô đang ở tình trạng khá ổn định. Tuy nhiên Tổng cục Thống kê cho rằng các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc, bất bình đẳng giầu nghèo tăng, chậm được khắc phục,...
Nền kinh tế của Việt Nam đã và đang ngày một trở nên phức tạp hơn, với các cơ chế, thị trường, tổ chức và lực lượng kinh tế mới ra đời trong suốt hơn hai thập niên đổi mới. Sự gấp gáp của cuộc đua tranh kinh tế được nhân lên bằng hành trình hội nhập, trong đó Việt Nam là thành viên mới của WTO.