![]()  | 
| Tiến sỹ Trần Đình Thiên. | 
TS Trần Đình Thiên cho rằng, với mục tiêu lạm phát dưới 10% nhưng lạm phát phải giảm sâu hơn xuống mức 5 - 7% thì doanh nghiệp mới trụ được trong năm "cắn răng vượt khó" này.
Tiếp  tục trao đổi về  câu chuyện điều hành chính sách năm 2012, TS Trần Đình  Thiên cho rằng,  với mục tiêu lạm phát dưới 10% nhưng lạm phát phải  giảm sâu hơn xuống  mức 5 - 7% thì doanh nghiệp mới trụ được trong năm  "cắn răng vượt khó"  này. Năm  2012, mục tiêu Chính phủ đặt ra là lạm phát xuống dưới 10%.  Thậm chí,  nhiều ý kiến lạc quan cho rằng, lạm phát 2012 sẽ giảm nhờ vào  chính sự  suy giảm kinh tế thế giới bên ngoài. Theo ông, đà lạm phát 2012  ở Việt  Nam sẽ ở mức nào? - Theo tôi,  lạm phát 2012 của Việt Nam giảm chủ yếu là do hiệu ứng  của chính sách  thắt chặt tiền tệ và tài khóa mà Chính phủ đã áp dụng  trong năm 2011  (và chắc chắn sẽ còn tiếp tục được duy trì trong năm  2012). Nếu biết  tận dụng xu thế giảm giá của thế giới thì lạm phát của  Việt Nam sẽ giảm  thấp hơn. Tuy nhiên, tôi lưu ý rằng  ta chưa bao giờ làm tốt điều này. Trong  nhiều năm gần đây, khi giá thế  giới thấp, lạm phát các nước đều thấp thì  lạm phát Việt Nam lại vọt  lên, đứng ở hàng "quán quân" khu vực và thế  giới. Áp lực thực tiễn hiện nay đối với việc hạ thấp lạm phát là rất lớn.  Đưa lạm phát xuống thấp không còn là câu chuyện "thành tích" của Chính  phủ mà là vấn đề sống còn của doanh nghiệp, của nền kinh tế. Giảm lạm  phát xuống 9-9,5% trong năm 2012 từ mức hơn 18% của năm 2011 đương nhiên  là một thành tích lớn. Song tôi cho rằng thành tích đó vẫn chưa đủ  "mạnh" để "cứu" nền kinh tế. Nếu lạm phát xuống mức đó thì lãi suất vay vẫn còn rất cao  (14-16%/năm), quá cao để nhiều doanh nghiệp có thể tiếp cận vốn dễ dàng  và nhờ đó, hồi sinh. Cần phải quyết tâm hạ lạm phát xuống thấp hơn nữa,  có thể 5-7%. Đà giảm lạm phát cộng với kinh nghiệm đang hỗ trợ quyết tâm  của Chính phủ thực hiện nhiệm vụ này. Năm 2011, gần 50.000 doanh nghiệp đã phá sản, lãi suất hiện vẫn  rất cao, chính sách tiền tệ thắt chặt vẫn tiếp tục. Ông có suy nghĩ thế  nào về con số này? - Vấn đề không dừng lại ở 50.000 hay 60.000 doanh nghiệp phải đóng  cửa, tuy rằng đây đã là con số báo động đỏ. Theo tôi, số doanh nghiệp  phải giảm quy mô kinh doanh, sản xuất cầm chừng, nghĩa là sống trong  tình trạng "sống dở, chết dở", "cầm chừng", là rất nhiều. Theo đó, số việc làm và mức thu nhập của lao động cũng giảm mạnh.  Nhưng số này không đưa vào thống kê nên con số 50.000 -60.000 doanh  nghiệp đóng cửa vẫn chỉ giúp cung cấp một cách nhìn không thực, thậm  chí, bị méo mó về thực trạng sức khỏe của nền kinh tế Việt Nam. Tình hình khó khăn như vậy thì phải gỡ. Nhưng gỡ như thế nào là vấn  đề phải tính. Mấy năm gỡ rồi mà có được đâu. Nghĩa là bài toán rất khó  và đang trở nên khó hơn do sự tích đọng khó khăn, yếu kém qua nhiều năm. Thả lãi suất thì nguy cơ lạm phát quay trở lại. Theo ông, làm sao  để vừa tạo được môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp sống, vừa không để  ảnh hưởng mục tiêu vĩ mô kiềm chế lạm phát? - Theo tôi, để giải bài toán này, cần tuân thủ hai yêu cầu. Một là "gỡ" bài bản, hệ thống, không theo kiểu đối phó ngắn hạn, mạnh  ai nấy làm, càng không phải theo cách ai vớ được cái gì thì dùng cái đó  để chống lạm phát, để thoát thân. Hai là phải chấp nhận đau đớn để thoát khỏi bệnh tật, phải chịu "trả"  chi phí để sửa những cái bị hỏng, để khắc phục những yếu kém. Thậm chí,  trong trường hợp nước ta hiện nay, chi phí đó phải lớn. Không nền kinh  tế nào điều chỉnh cơ cấu mà không tốn kém, đau đớn. Người xưa từng nói  "thuốc đắng dã tật", thậm chí "lấy độc trị độc". Cần có tư duy "đảo  logic" như vậy trong hành động thì mới tạo ra đột phá mạnh để thoát khỏi  tình trạng gần như "lưỡng nan" hiện nay của nền kinh tế. Theo cách tiếp cận "chịu đau" như vậy thì sẽ có tổn thất, thậm chí  "hy sinh", nhất là đối với các doanh nghiệp. Thắt chặt tiền tệ thì tiếp  cận vốn khó, doanh nghiệp sẽ phải "cầm cự", hay phải "nín hơi" lâu. Mà  nín hơi lâu trong khi bị yếu sức thì khả năng "ra đi" là rất cao. Có nhiều "phép" để trị bệnh. Nhưng tôi muốn đề cấp đến một nhóm giải  pháp vừa căn bản, vừa cấp thời: đó là mạnh dạn thay đổi hoạt động ngân  sách và chi tiêu công theo hướng "siết chặt", lấy phần "dư" để hỗ trợ  doanh nghiệp. Cộng thêm vào đó là nâng cao trách nhiệm bộ máy để tăng hiệu lực điều  hành, củng cố lòng tin của dân. Muốn vậy thì phải ráo riết cải cách căn  bản tiền lương trong khu vực nhà nước theo nguyên lý gắn trách nhiệm  với tiền lương. Không dễ nhưng phải làm. Cải cách tiền lương đã trở  thành chuyện sống còn của bộ máy nhà nước.
(VEF)
 ![]()  | 
 ![]()  | 
 ![]()  | 
 ![]()  | 
Chuyển nhượng, cho thuê hoặc hợp tác phát triển nội dung trên các tên miền:
Quý vị quan tâm xin liên hệ: tieulong@6vnn.com