Ban chỉ đạo Tây Nam bộ, Viện Nghiên cứu và phát triển đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) vừa đề xuất Chính phủ có chính sách hỗ trợ đẩy mạnh việc liên kết “bốn nhà” ở ĐBSCL. Vấn đề liên kết đã được đặt ra từ lâu nhưng triển khai thực hiện chẳng mấy kết quả. Đề xuất mới này đang đặt ra nhiều kỳ vọng vực dậy vựa lúa lớn nhất cả nước này.
Ông Trần Hữu Hiệp - phó chánh văn phòng Ban chỉ đạo Tây Nam bộ, thành viên nhóm xây dựng chương trình liên kết vùng ĐBSCL - trăn trở câu chuyện nông dân ĐBSCL là tác giả của công trình đưa VN giữ vững vị trí cường quốc xuất khẩu gạo thứ hai thế giới, song đời sống của họ lại luôn bị đe dọa bởi điệp khúc “được mùa mất giá”, “được giá, hết hàng”.
Tự phát nên không hiệu quả
Từ việc trồng lúa đến cây ăn trái hay nuôi tôm, cá xuất khẩu ở ĐBSCL gần như đều tự phát. Theo ông Hiệp, việc bảo quản sau thu hoạch, đóng gói và phát triển thương hiệu gạo hay khâu xay xát, lưu trữ gạo trước khi đưa ra thị trường cũng cần cải thiện. Bên cạnh đó, đầu tư cho phát triển vừa thấp vừa chậm, cơ sở hạ tầng yếu kém lại thiếu đồng bộ nên không hiệu quả. Nuôi cá tra là một ví dụ điển hình.
Năm 2000, thấy nơi nơi đổ xô đóng bè nuôi cá tra, ông Nguyễn Hữu Nguyên (Khánh Hòa, Châu Phú, An Giang) rủ người bạn cùng hùn vốn đầu tư sáu bè nuôi, mỗi năm họ thu hoạch cả ngàn tấn cá tra. Thời hoàng kim nuôi cá bè, chỉ riêng An Giang có hơn 4.000 bè lớn nhỏ chuyên nuôi cá tra xuất khẩu. Thế rồi sau đó phong trào nuôi cá tra trong ao quầng phát triển mạnh.
Các doanh nghiệp cũng tập trung chuyển qua thu mua loại cá nuôi theo hình thức này, bởi nó đáp ứng số lượng lớn và có tỉ lệ chế biến cao. “Con cá tra nuôi bè trở nên khó tiêu thụ, giá bán lại thấp dẫn tới thua lỗ, các làng bè dần đi đến phá sản. Mỗi bè có chi phí đóng mới cả trăm lượng vàng lần lượt trở thành... phế liệu” - ông Nguyên nhớ lại.
Sau đợt khủng hoảng đầu ra vào năm 2008, ông Nguyên và bạn thua lỗ gần chục tỉ đồng, phải bán đất để trả nợ. Thua keo này bày keo khác, nhưng rồi họ tiếp tục lỗ thêm 6 tỉ đồng, đành bán đất cùng nhà xưởng để trang trải nợ nần.
Theo hiệp hội thủy sản các tỉnh ĐBSCL, cá tra chủ yếu cung ứng cho xuất khẩu nhưng người nuôi không gắn kết được với các doanh nghiệp chế biến trong khâu tiêu thụ. “Thực tế lâu nay hầu như mạnh ai nấy nuôi, mạnh ai nấy thu mua chế biến để xuất khẩu. Đó là nguyên nhân chính khiến hàng loạt hộ liên tục bị thua lỗ phải lần lượt bỏ nghề” - ông Lê Chí Bình, phó chủ tịch Hiệp hội Nghề nuôi và chế biến thủy sản An Giang, nhận định.
Theo GS.TS Võ Tòng Xuân, ĐBSCL là vựa lúa xuất khẩu của cả nước, tuy nhiên hình thức sản xuất vẫn còn manh mún, tự phát. Khâu tiêu thụ lúa gạo lắm lúc gặp khó khăn, giá cả xuống thấp khiến nông dân thường thua lỗ. Mặt khác doanh nghiệp chưa chủ động được nguồn nguyên liệu tập trung nên sản phẩm gạo không đồng nhất, chất lượng chưa ổn định. Cũng như con cá tra, tuy là nước xuất khẩu hàng đầu thế giới nhưng mãi tới giờ VN vẫn chưa xây dựng được thương hiệu cho hai sản phẩm xuất khẩu chủ lực đầy lợi thế của mình. Nguyên nhân chính vẫn là thiếu liên kết trong tổ chức sản xuất.
Manh nha… liên kết
Gần đây đã xuất hiện vài mô hình liên kết trong sản xuất. Tại An Giang, từ năm 2005 Công ty Agifish đã quy tụ 30 hộ tham gia câu lạc bộ nuôi cá sạch mỗi năm cung ứng 60% lượng cá chế biến xuất khẩu. Mặc dù thị trường nhiều biến động nhưng nhờ doanh nghiệp bao tiêu nên số hộ này có lợi nhuận ổn định. Tương tự, HTX Thới An (Ô Môn, Cần Thơ) và ba HTX ở Mang Thít (Vĩnh Long) được Công ty cổ phần Hùng Vương hợp tác đầu tư nuôi theo hình thức giao khoán. Sau khi ký hợp đồng, người dân tiến hành thả con giống thì doanh nghiệp cung cấp thức ăn, sau đó bao tiêu sản phẩm.
Ông Nguyễn Ngọc Hải, chủ nhiệm HTX Thới An, cho biết HTX có 36 hộ nuôi cá, mỗi năm giao cho công ty 10.000 tấn cá đạt tiêu chuẩn chế biến. “Cứ mỗi ký cá nguyên liệu người nuôi được hưởng 2.500 đồng, trừ tiền mua con giống, chi phí bơm nước, thuốc men phòng trị bệnh, nếu nuôi tốt thì có lãi trung bình 1.000 đồng/kg” - ông Hải nói.
Liên kết là giải pháp
Căn bệnh làm trì trệ phát triển kinh tế vùng ĐBSCL đã được xác định là mạnh ai nấy làm, đầu tư theo phong trào. Nhiều địa phương chạy theo “cơ cấu đẹp”, chứ chưa dựa trên lợi thế chung để hợp tác và khai thác lợi thế so sánh của từng tỉnh.
Điều này được thể hiện qua tình trạng tỉnh nào cũng có khu - cụm công nghiệp, chợ đầu mối, nhà máy đường hoặc đang có xu hướng chạy đua xây dựng khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, trung tâm giống...
Chính vì vậy, liên kết vùng được đặt ra với kỳ vọng khắc phục những khiếm khuyết trong quá khứ.
Theo ông Trần Hữu Hiệp, liên kết vùng ngoài việc khắc phục các nhược điểm khiến chưa phát huy hết tiềm năng và lợi thế, còn tính đến liên kết bốn nhà và sự đồng thuận của chính quyền 13 tỉnh thành trong vùng.
Về sản xuất lúa gạo, tập trung vào bốn nhóm giải pháp chính: ứng dụng khoa học - công nghệ trong chọn tạo giống, hỗ trợ kỹ thuật sản xuất lúa gạo, tổ chức và liên kết sản xuất, cuối cùng là giải pháp về thị trường. Về cây ăn quả sẽ xây dựng mạng lưới sản xuất và tiêu thụ thông qua giải pháp tham gia bốn nhà, liên kết các viện trường nghiên cứu và ứng dụng khoa học vào sản xuất, xây dựng mô hình sản xuất và tiêu thụ theo chuẩn GAP (thực hành nông nghiệp tốt), mô hình công nghệ sau thu hoạch...
Ông Hiệp nhấn mạnh để liên kết hiệu quả, ngoài sự đồng thuận và nhất quán từ trung ương đến địa phương, quan trọng nhất là quy hoạch sản xuất và tập trung nguồn nguyên liệu của những ngành hàng mũi nhọn, ưu tiên đầu tư cho cơ sở hạ tầng...
(Tuổi trẻ)
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Chuyển nhượng, cho thuê hoặc hợp tác phát triển nội dung trên các tên miền:
Quý vị quan tâm xin liên hệ: tieulong@6vnn.com