Theo tính toán của Bộ Xây dựng, Hội vật liệu xây dựng Việt Nam thị trường xi măng của ta vẫn đang cung vượt quá cầu. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc ngành xi măng trở nên ế ẩm, thua lỗ.
Câu chuyện hàng loạt nhà máy xi măng làm ăn thua lỗ nặng nề, hàng sản xuất không tiêu thụ được dường như đã được báo trước. Từ tình hình kinh tế suy thoái, nhu cầu xây dựng trong nước tuy lớn nhưng từ trước đến nay thị trường xi măng trong nước vẫn luôn ở mức cung vượt quá cầu.
Xoay quanh việc bốn công ty xi măng gồm: Đồng Bành, Hạ Long, Cẩm Phả, Thái Nguyên rơi vào cảnh nợ nần do thua lỗ. Đáng chú ý trong số 4 công ty này, Công ty xi măng Đồng Bành, đơn vị được coi là “cánh chim đầu đàn” của ngành xi măng. Công ty xi măng Đồng Bành thuộc Tổng công ty cơ khí xây dựng COMA - Bộ Xây dựng.
Theo một số liệu thống kê thì số nợ của Công ty xi măng Đồng Bành của Ngân hàng ANZ - chi nhánh Hà Nội đã lên tới con số 747,850 tỉ đồng. Tính trong quý 1/2012 số tiền thua lỗ của công ty này khoảng gần 197 tỉ đồng.Trước đó, Bộ Tài chính đứng ra trả 3,5 triệu USD cho ANZ. Tuy nhiên, khoản này cũng chưa thấm vào đâu so với các món nợ phải trả cả gốc lẫn lãi trong 5 năm tới là trên 600 tỉ đồng.
Để độc giả có cái nhìn mới, lý giải nguyên nhân dẫn đến tình trạng một loạt nhà máy xi măng làm ăn thua lỗ, nợ xấu trên bờ vực phá sản. Phóng viên báo điện tử Giáo dục Việt Nam đã có cuộc trao đổi với TS Phạm Sỹ Liêm – P.Chủ tịch Tổng hội xây dựng Việt Nam (nguyên Thứ trưởng thường trực Bộ xây dựng).
Theo TS Phạm Sỹ Liêm, tuy Chính phủ đã có chương trình phát triển ngành công nghiệp xi măng. Nhưng việc nhiều doanh nghiệp, tập đoàn “đổ xô” vào theo phong trào đầu tư vào ngành sản xuất vật liệu xây dựng cụ thể là ngành xi măng.
Nhưng việc đầu tư lớn trong khi nguồn lực thiếu và yếu. Thậm chí có nhiều đơn vị đầu tư thiết bị kỹ thuật hiện đại nhưng hàng sản xuất ra lại không cạnh tranh, không tiêu thụ được.
Lý giả nguyên nhân dẫn đến các doanh nghiệp xi măng “chết yểu” hàng sản xuất ra không tiêu thụ được. TS Phạm Sỹ Liêm cho rằng: “Có nhiều nguyên nhân dẫn đến chuyện 4 Công ty xi măng nói trên lâm cảnh nợ nần thua lỗ. Trong đó nguyên nhân chủ quan từ phía các Tập đoàn, các Tổng công ty là chính”.
Theo phân tích của TS Liêm “bắt bệnh” phải từ các Tổng công ty, mà trên nữa là đơn vị chủ quản khi đầu tư thiếu thận trọng. Cùng lúc đó nền kinh tế nói chung bị suy thoái, nhu cầu xi măng trên thị trường không còn nhiều. Việc ra đời hàng loạt các nhà máy xi măng trong khi thị trường đang cung vượt quá cầu dẫn đến hậu quả càng trầm trọng.
Hơn nữa các đơn vị doanh nghiệp không chỉ đầu tư riêng cho ngành xi măng. Ví dụ như Vinaconex ngoài đầu tư xi măng còn đầu tư thị trường bất động sản. Từ việc thị trường bất động sản chững lại ảnh hưởng tài chính của nhiều doanh nghiệp.
Khi nguồn vốn quay vòng cho sản xuất xi măng đã “chết” theo bất động sản cũng là lúc doanh nghiệp phải chạy vạy cầu cứu các ngân hàng. Đến khi có vốn quay vòng sản xuất, sản phẩm làm ra không tiêu thụ được dẫn đến thua lỗ nợ nần.
Cũng theo TS Phạm Sỹ Liêm, việc kinh doanh trên thị trường có sự suy thoái, phồn thịnh, có lãi có lỗ nhưng nhìn lại chính mỗi đơn vị kinh tế phải tự rút ra bài học. Thực tế nhiều Tập đoàn, Tổng công ty lớn đã mạnh rạn thoái vốn ở lĩnh vực kém hiệu quả. Dành nguồn vốn quay vòng cho các dự án khả thi đơn vị kinh tế hiệu quả.
Tuy nhiên theo TS Liêm đây cũng chưa phải cách hay, chính trong lúc khó khăn doanh nghiệp cụ thể các nhà máy xi măng như: Đồng Bành, Hạ Long, Cẩm Phả, Thái Nguyên, phải khẳng định được năng lực tự đứng vững trên thị trường. Không nên trông chờ vào Tổng công ty hay các Bộ, Ngành đơn vị chủ quản mình được.
Điều TS Phạm Sỹ Liêm lo lắng chí là việc doanh nghiệp làm ăn thua lỗ nợ hàng trăm tỉ đồng ở các ngân hàng. Trong khi sản phẩm sản xuất ra không tiêu thụ được, điều này ảnh hưởng trước mắt đến chính đời sống người lao động. Tình trạng xấu nhất có thể xảy ra nếu các doanh nghiệp này phá sản, chính người lao động, công nhân trong nhà máy là người chịu ảnh hưởng lớn nhất kéo theo hệ lụy thất nghiệp.
Chình vì lo lắng điều này nên các Bộ, Ngành chủ quản đã phải đứng ra trả nợ, bảo lãnh nợ cho doanh nghiệp tại ngân hàng. Tuy nhiên các doanh nghiệp không thể mãi trông chờ vào nhà nước mà trước hết nên tự tìm cách vượt qua khó khăn. Có thể bằng việc quy hoặc không sản xuất ồ ạt, phải dựa vào đơn hàng thực tế điều này có thể tiết kiệm nguyên liệu, chi phí sản xuất. Tuy nhiên đây chỉ là giải pháp tình thế, sản xuất “cầm hơi” như vậy không thể đủ việc làm không đủ trả lương cho công nhân.
Vì vậy theo TS Phạm Sỹ Liêm, không thể để các Công ty xi măng "chết" lúc này, bởi nếu để xảy ra phá sản đời sống công nhân, người lao động sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Trước hết cần phải có giải pháp giãn nợ từ các ngân hàng cho doanh nghiệp từng bước giải quyết vấn đề.
Để có chiến lược dài hơi ở ngành sản xuất xi măng, TS Phạm Sỹ Liêm cho rằng cần phải có tầm nhìn xa hướng đến xuất khẩu sang thị trường có nhu cầu như Châu Phi. “Điều này muốn thực hiện được chính các doanh nghiệp phải năng động tìm thị trường. Thực tế với lục địa đen đang là nơi thu hút sự đầu tư lớn, nhu cầu xây dựng tái thiết lớn mặt hàng xi măng ở đây sẽ cần rất lớn là cơ hội cho xi măng trong nước đang ế ấm” – TS Phạm Sỹ Liêm cho biết thêm.
Rõ ràng thực trạng ngành xi măng phát triển ồ ạt dẫn đến làm ăn thua lỗ, hàng sản xuất ứ đọng đang là tín hiệu xấu không chỉ với ngành sản xuất vật liệu xây dựng.
Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý với kiến nghị của Bộ Xây dựng đưa 9 dự án xi măng quy mô công suất dưới 2.500 tấn clinke/ngày ra khỏi quy hoạch phát triển ngành xi măng.
Xuất khẩu đang được xem là lối thoát duy nhất giúp các DN trong ngành thép giảm lượng áp lực tồn kho. Tuy nhiên, cánh cửa này cũng đang dần khép lại khi những thị trường XK ít ỏi mà DN thép của Việt Nam đã dày công xây dựng đều đang đưa ra các vụ kiện phòng vệ thương mại.
Tiếp theo bài viết “Ba vấn đề của DN ngành xi măng”, báo DĐDN tiếp tục vấn đề với mục tiêu đi tìm những cơ hội, giải pháp để thoát khỏi nguy cơ phá sản cho DN nhóm ngành này.
Trong số 5 DN thua lỗ gây nhức nhối trong ngành xi măng hiện nay đã có 4 là do các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước đầu tư. Đó là: Xi măng Đồng Bành, Cẩm Phả, Thái Nguyên và Hạ Long.
Theo thống kê của Hiệp hội Gốm sứ xây dựng Việt Nam (VIBCA), từ đầu năm đến nay, lượng sản phẩm bị tồn kho ước tính khoảng 3.000 tỷ đồng, gấp 2 lần mức bình thường. Trong đó, gạch ốp lát còn khoảng 30 triệu mét vuông, sứ vệ sinh khoảng 1 triệu sản phẩm…
Vật liệu xây không nung (VLXKN) mặc dù được xem là vật liệu xanh, thân thiên môi trường và được khuyến khích sử dụng. Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện nay theo nhiều chuyên gia do chúng ta thiếu một cơ chế, chính sách đồng bộ nên các DN sản xuất loại vật liệu này đang rất khó khăn trong việc tìm chỗ đứng trên thị trường.
Gạch không nung (còn gọi là gạch bê tông nhẹ) được xem là vật liệu xanh, thân thiên môi trường và được khuyến khích sử dụng. Tuy nhiên, các doanh nghiệp sản xuất loại vật liệu mới này lại đang rất khó khăn trong việc tìm chỗ đứng trên thị trường.
Gần đây, tre được ca ngợi như một vật liệu siêu mới, có thể sử dụng với nhiều mục đích khác nhau, từ dệt may đến xây dựng. Tre cũng có khả năng hấp thụ một lượng lớn carbon dioxide - loại khí gây hiệu ứng nhà kính lớn nhất, và giúp nhiều người nghèo có thể kiếm tiền.
Sau gạch ốp lát, thép, giờ đến lượt ngành xi măng rơi vào tình trạng dư thừa công suất. Đã có một số nhà máy được các chủ đầu tư rao bán để lấy tiền trả nợ. Trong ngành, cụm từ “phá sản” đang được nhắc tới…
Trong đề án quy hoạch chi tiết phát triển vật liệu xây dựng đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, tỉnh Ninh Bình kiên quyết loại bỏ công nghệ sản xuất ximăng lò đứng vào năm 2015.
“6 năm qua, chúng tôi phải vật lộn với khủng hoảng vận tải biển, kinh tế suy thoái, những khó khăn do căng thẳng tại Biển đông… Thực sự chúng tôi sắp hết hơi rồi!” - ông Vũ Đức Then - Phó Chủ tịch Hội vận tải biển Diêm Điền - Thái Bình bày tỏ.
Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam (VPA) cho biết khối lượng tiêu xuất khẩu tháng 7 ước đạt 9.000 tấn, với giá trị đạt 74 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu tiêu 7 tháng đầu năm 2014 lên 119.000 tấn với giá trị 862 triệu USD, tăng gần 29% về khối lượng và tăng 42% về giá trị so với cùng kỳ năm 2013.
Là "công xưởng của thế giới" lâu nay song chi phí đắt lên, cộng với những rủi ro nội tại, Trung Quốc mất dần sự hấp dẫn trong mắt nhà đầu tư quốc tế.
Từ đầu năm đến nay, nhiều doanh nghiệp ngành dệt may, sản xuất xơ, sợi nước ngoài (doanh nghiệp FDI) tìm đến xây dựng nhà máy sản xuất ở Việt Nam với quy mô vốn đầu tư lớn.
EVN lý giải nguyên nhân vẫn phải mua điện từ phía Trung Quốc sau những ý kiến trái chiều của các chuyên gia và dư luận. Để đảm bảo cung cấp điện ổn định và đảm bảo chất lượng điện năng cho các tỉnh Tây Bắc, EVN vẫn phải duy trì mua điện Trung Quốc với một sản lượng tối thiểu.
Nhu cầu sản phẩm công nghiệp có xu hướng tăng trở lại trong khi tồn kho vẫn tiếp tục ở mức cao, giá trị gia tăng thấp là những gam màu chính trong bức tranh sản xuất công nghiệp nửa đầu năm 2014.
Với những người chủ ý mua xe ga cao cấp thì yếu tố đem ra so sánh giữa những sản phẩm của các hãng khác nhau không phải là giá cả, mà là thỏa mãn nhu cầu.
Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 39/2013/QĐ-TTg ngày 27/6/2013 về việc sửa đổi, bổ sung Khoản 1 Điều 2 Quy chế hoạt động của Khu kinh tế Đình Vũ - Cát Hải, thành phố Hải Phòng ban hành kèm theo Quyết định số 69/2011/QĐ-TTg ngày 13/12/2011.
“Thông minh như thế mà tại sao làm những chuyện như thế, nói thực là tôi không hiểu”, Phó chủ Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) Nguyễn Hữu Dũng nói tại cuộc gặp gỡ báo chí sáng 5/7.
Mặc dù ảnh hưởng của cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu đã làm cho sức mua tại hầu hết các thị trường lớn của ngành dệt may như Mỹ, EU, Nhật... sụt giảm nghiêm trọng, nhưng ngành dệt may VN đã nỗ lực cạnh tranh với các nước XK để giành lấy phần thị trường đang bị co hẹp, đồng thời đẩy mạnh việc chiếm lĩnh thị trường nội địa. Ông Lê Quốc Ân - Chủ tịch Hiệp hội Dệt May VN đã có cuộc trao đổi với báo giới xung quanh nội dung này.
"Năm 2010, chúng tôi sẽ cố gắng phấn đấu tăng trưởng giá trị xuất khẩu sản phẩm gỗ từ 8-10% so với năm nay. Hiệp hội sẽ đăng ký với Bộ Công Thương kim ngạch khoảng 3 tỷ USD", Tổng thư ký Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, ông Nguyễn Tôn Quyền, nói với VnEconomy ngày hôm qua.
Chiến lược phấn đấu đến năm 2010, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ (TCMN) phải đạt 1,5 tỷ USD là có khả năng thực hiện được. Tuy nhiên, theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế để đạt được chỉ tiêu này, nhất là trong bối cảnh khó khăn như hiện nay thì thời gian tới cần có sự liên kết giữa các cơ quan quản lý nhằm kết hợp hài hòa và tối ưu hóa các nguồn lực cho phát triển ngành hàng này. Trong đó, các DN rất cần sự hỗ trợ kịp thời từ Chính phủ thông qua các chương trình bảo tồn làng nghề, khuyến công và xây dựng hạ tầng cơ sở.
Xác định rõ tầm quan trọng của ngành công nghiệp ô tô trong quá trình phát triển của đất nước, từ những năm đầu của thập niên 90, Việt Nam đã đưa ra nhiều khuyến khích nhằm thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia vào ngành công nghiệp này. Ngày 5/10/2004, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 177/2004/QĐ-TTg “Về việc phê duyệt quy hoạch phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn đến 2020”. Tuy nhiên, sau gần 5 năm triển khai thực hiện, nhiều chỉ tiêu của quy hoạch đã không thực hiện được hoặc hầu như chắc chắn không thực hiện được, nhất là những chỉ tiêu đến năm 2010. Những chỉ tiêu đến năm 2020 cũng rất khó có thể thực hiện được. Để làm rõ vấn đề này cần phải tính các nguyên nhân, thực trạng phát triển và đưa ra các giải pháp để bảo đảm thực hiện được các mục tiêu phát triển của ngành ô tô ở Việt Nam.
Trong 3 tháng qua, giá nhiều loại vật liệu xây dựng (VLXD) đã tăng liên tục. Giới kinh doanh dự báo, khả năng giá nhiều loại VLXD còn tăng. Thông tin này đã làm cho nhiều người có kế hoạch xây dựng nhà phải tính toán lại...
Việc chọn Việt Nam làm cứ điểm sản xuất để xuất khẩu ra toàn thế giới của các tập đoàn như Samsung, Canon, Intel... là tín hiệu cho thấy cơ hội để phát triển ngành công nghiệp phụ trợ của Việt Nam đã đến.
Cách tạo dựng công nghiệp ô tô dựa quá nặng vào các nhà đầu tư nước ngoài đã khiến ngành ô tô của VN phát triển khá ì ạch, tạo ra những khó khăn cho các doanh nghiệp VN khi tham gia lĩnh vực này. Tinkinhte xin đăng lại bài viết của chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan trên SGGP về vấn đề này.
Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã ảnh hưởng tới nền kinh tế cả nước nói chung và thu hút đầu tư vào các khu kinh tế (KKT) miền trung nói riêng. Nhiều nhà đầu tư đã xin giãn tiến độ triển khai dự án. Các KKT miền trung cần điều chỉnh, lựa chọn những dự án và giải pháp hợp lý để thu hút đầu tư, phát triển mô hình KKT một cách có hiệu quả.
Được đánh giá là một ngành hàng mà Việt Nam có nhiều thế mạnh, nhưng ngành gốm sứ Việt Nam đang có sự phân cực rất rõ. Những đơn vị sản xuất công nghiệp - đa phần là gốm sứ xây dựng - đã và đang phát triển mạnh mẽ, trong khi dòng gốm thủ công mỹ nghệ đang gặp khó khăn rất lớn.
Tăng trưởng của Tổng công ty cổ phần Bia - Rượu – Nước giải khát Sài Gòn (Sabeco) là 38,3%; của Tổng công ty cổ phần Bia - Rượu – Nước giải khát Hà Nội (Habeco) là 28,3% và của toàn ngành nói chung là 11,8% trong năm 2008 đã cho thấy sức hấp dẫn của những ngành hàng này, đặc biệt khi mà nhiều ngành hàng khác đang phải vật lộn để có đơn hàng.
Theo ASX Alphaliner, đội tàu của 100 hãng tàu vận tải hàng đầu trên thế giới hiện gồm khoảng 6,000 tàu đang hoạt động, trong đó có khoảng 5,000 tàu là các tàu container.