Cũng như các quốc gia khác, gia tăng dân số, hao hụt đất đai vì ô nhiễm, đô thị hoá và công nghiệp hoá, thâu tóm đất đai, và nhất là biến đổi khí hậu đều là những vấn đề đè nặng lên nông nghiệp và nông thôn Việt Nam. Cạnh đó, còn có những điểm yếu đặc thù làm bức tranh tổng thể nông nghiệp và nông thôn Việt Nam càng đáng lo ngại hơn.
Nông thôn Việt Nam vẫn còn rất nghèo, tuy chiếm 70% dân số và đóng góp 20% vào GDP, thu nhập của nông dân chỉ bằng 1/3 mức bình quân của cả nước, và 1/4 mức bình quân ở thành thị, tỷ lệ đói nghèo còn cao (18%). Ngân sách nhà nước dành cho nông nghiệp, nông thôn, từ nhiều năm nay vẫn không quá 10% tổng số vốn đầu tư, nông dân chỉ hưởng 25% các đầu tư về giáo dục và y tế.
Sự phân hoá thành thị và nông thôn là trái bom nổ chậm, sớm muộn sẽ dẫn đến bất ổn xã hội trầm trọng, như đã xảy ra tại một số nơi ở Trung Quốc.
Trong các khó khăn nhiều mặt của nông nghiệp Việt Nam, xin nêu lên những vấn đề chính và cấp bách nhất.
Ô nhiễm môi trường
Ô nhiễm đang trở thành một hiện tượng “bình thường” của cuộc sống, hậu quả tất yếu và cái giá phải trả của “công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”? Đáng sợ không kém những tác hại của nó là tâm lý bất lực chung: người dân cam chịu, chính quyền lúng túng hoặc dung túng, các công ty chai lì, bất chấp luật lệ và dư luận.
Chính sách và luật lệ vô hiệu khi còn nhiều lỗ hổng. Các cuộc kiểm tra phải được báo trước nên nhà máy dễ che giấu các vi phạm và các mức phạt quá thấp nên nhiều công ty chọn trả tiền phạt thay vì lắp đặt hệ thống kiểm soát ô nhiễm tốn kém. Các vi phạm không được xử lý kiên quyết và nghiêm minh, vì tham nhũng, vì quyền lợi của một số người, vì nể nang nhau giữa cơ quan nhà nước và xí nghiệp cũng của Nhà nước, hay vì những khiếm khuyết cố hữu trong việc thi hành luật.
Tương lai sẽ ra sao khi theo chính các thống kê của bộ Tài nguyên và môi trường, hiện có khoảng 4.000 cơ sở sản xuất kinh doanh và 1.450 trên tổng số 2.100 làng nghề gây ô nhiễm? Trong số 800.000 cơ sở sản xuất công nghiệp hiện nay, 80% sử dụng công nghệ cũ kỹ của những năm 80, thậm chí những năm 70, 60 của thế kỷ trước, hầu hết đều gây ô nhiễm môi trường.
Nông dân và doanh nghiệp lẽ ra phải là những đối tác bình đẳng, quyền lợi phải được coi trọng ngang chứ không thể như người ban ơn và nhận ơn. |
Đô thị hoá cũng là một nguồn ô nhiễm lớn. Áp lực rất nặng của đô thị hoá lên môi trường càng trầm trọng hơn ở Việt Nam với cung cách phát triển xô bồ, vô tổ chức và vô ý thức ở nhiều nơi.
Song phải nói là nông nghiệp không chỉ là nạn nhân mà cũng có trách nhiệm. Phân bón và các thuốc trừ sâu hoá học làm biến chất lớp đất tự nhiên, ô nhiễm sông ngòi và mạch nước ngầm...
“Thu hồi” đất đai
Diện tích đất canh tác trên đầu người của Việt Nam hiện nay thuộc loại rất thấp trên thế giới và ngày càng ít đi. Chỉ trong bảy năm, từ 2001 đến 2007, tổng diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi đã lên nửa triệu ha, hơn 80% là đất tốt, canh tác hai vụ lúa một năm. Theo bộ Tài nguyên và môi trường, có khả năng từ nay đến 2020, từ 10 – 15% đất nông nghiệp chuyển sang công nghiệp và dịch vụ.
Đất nông nghiệp đang bị mất đi trong nhiều điều kiện rất vô lý. Nhiều khu công nghiệp, dịch vụ nằm trên những “bờ xôi ruộng mật”, dù đã có lệnh bảo vệ những vùng này. Có nơi, dự án lấy đất xong rồi bỏ đó, bạc màu, hoang hoá. Có nơi, dự án thi công phá vỡ hệ thống thuỷ lợi, khiến nông dân không thể canh tác được nữa. Phi lý nhất là “phong trào” dùng đất nông nghiệp để xây sân golf.
Ngoài việc ảnh hưởng đến an ninh lương thực, các nông dân mất đất cũng mất phương tiện sinh sống. Một khi dùng cạn số tiền đền bù, thường là rẻ mạt, họ rơi vào cuộc sống bấp bênh của những người “ba không”: không đất để cày, không nghề để sống, không nơi để đi.
Trong quá trình phát triển của một nước, tất nhiên có những nhu cầu mâu thuẫn nhau. Công nghiệp hoá là một trong những con đường giúp ra khỏi nghèo nàn lạc hậu, tất nhiên đòi hỏi một số hy sinh, nhưng phải làm sao hy sinh ít nhất và một cách hợp lý nhất.
Cơ chế
Tình trạng sản xuất phân tán làm nông dân thiệt thòi nhiều mặt: các ngân hàng, tổ chức khuyến nông không thể đưa dịch vụ tới tận những làng bản xa xôi cho từng nông dân nhỏ lẻ vì chi phí quá cao. Các chương trình điện hoá, cung cấp nước sạch không đến được những gia đình rải rác trong những vùng sâu và xa. Quan trọng hơn cả là vấn đề hiệu quả kinh tế. Quy mô nhỏ lẻ là kết quả của một quá trình lịch sử dài, nhưng trong thời hội nhập, nông nghiệp phải tiến đến một nền sản xuất lớn có giá trị gia tăng với những sản phẩm có chất lượng cao và ổn định.
Xin đưa ra một thí dụ: gạo, mặt hàng chủ lực của nông nghiệp và xuất khẩu Việt Nam.
Giữa nông dân và thị trường, thông qua các doanh nghiệp thu mua và chế biến, dù là cho xuất khẩu hay tiêu thụ trong nước, quan hệ càng trực tiếp càng có lợi cho người sản xuất. Hiện nay, các doanh nghiệp không thể ký, chưa nói đến việc thực hiện hợp đồng với hàng trăm ngàn nông dân để có đủ số lượng cần thiết nên cần bộ phận trung gian là các thương lái. Vì cách thu mua này mà tuy Việt Nam mang danh nước xuất khẩu gạo thứ nhì trên thế giới, chất lượng gạo Việt Nam luôn thấp vì gom từ nhiều nguồn, nhiều loại lúa trộn lẫn, gạo xay ra chủ yếu phẩm cấp thấp. Giá gạo Việt Nam thấp nhất trong sáu nước xuất khẩu gạo chính. Nông dân không lời khi thị trường thuận lợi và phải chịu lỗ khi nông sản mất giá.
Nông dân và doanh nghiệp lẽ ra phải là những đối tác bình đẳng, quyền lợi phải được coi trọng ngang chứ không thể như người ban ơn và nhận ơn. Cách làm tự phát, thiếu định hướng, thiếu hướng dẫn hiện nay đẩy người nông dân vào thế bị ép và phải chấp nhận thua thiệt mọi bề.
Sự yếu thế này có thể giải thích do hệ thống thu mua và nhất là vai trò của hiệp hội Lương thực Việt Nam.
Hiệp hội Lương thực Việt Nam tập hợp các doanh nghiệp kinh doanh, chế biến lương thực, nhưng không phải là một hiệp hội ngành hàng (trade association) mà thực chất là cơ quan nhà nước, tổ chức và hoạt động theo điều lệ do bộ trưởng bộ Nội vụ phê duyệt, và chịu sự quản lý của bộ Thương mại (nay là bộ Công thương). Hiệp hội này có những quyền hạn to lớn và các chức năng của Nhà nước như phân hạn ngạch và cấp quota xuất khẩu. Điều này tạo ra xung đột lợi ích, biến cơ chế thành công cụ bảo vệ quyền lợi của một nhóm.
Tập hợp nông dân lại thành tổ chức là một nhu cầu bức bách và là điều các nhà kinh tế đã kêu gọi từ nhiều năm nhưng chưa thành hiện thực. Lý do phải chăng là vì nói đến “hợp tác xã”, dù là kiểu mới, “tích tụ ruộng đất”,… vẫn còn làm liên tưởng ngay đến cải cách ruộng đất, hợp tác hoá cưỡng bức? Cũng có thể tự hỏi: lực cản là từ não trạng người nông dân hay là từ những tổ chức không muốn thay đổi cán cân lực lượng hiện rất có lợi cho họ – những công ty nhà nước trong hiệp hội?
Một mặt, nông dân phải có một tổ chức thực sự mang tiếng nói, bảo vệ quyền lợi, phản ánh đích thực những nhu cầu và nguyện vọng của họ. Hội Nông dân Việt Nam không đóng vai trò này vì đây chủ yếu là một tổ chức chính trị – xã hội chứ không phải là một tổ chức kinh tế.
Tập hợp nông dân lại thành tổ chức là một nhu cầu bức bách và là điều các nhà kinh tế đã kêu gọi từ nhiều năm nhưng chưa thành hiện thực. Lý do phải chăng là vì nói đến “hợp tác xã”, dù là kiểu mới, “tích tụ ruộng đất”,… vẫn còn làm liên tưởng ngay đến cải cách ruộng đất, hợp tác hoá cưỡng bức? Cũng có thể tự hỏi: lực cản là từ não trạng người nông dân hay là từ những tổ chức không muốn thay đổi cán cân lực lượng hiện rất có lợi cho họ – những công ty nhà nước trong hiệp hội? |
Mặt khác, cần phải xem lại vai trò của hiệp hội Lương thực và cơ cấu chức năng của bộ máy quản lý nhà nước trong nông nghiệp, nhất là trong việc quản lý các khoản đầu tư.
Nhà nước còn thiếu những chính sách điều phối cụ thể để đảm bảo thu nhập người nông dân. Chẳng hạn, hệ thống kho đệm (buffer stocks) ở nhiều nước cho phép điều tiết cung cầu, Nhà nước mua vào khi sản xuất dư, bán ra thị trường khi sản xuất thiếu để ổn định giá cả cho cả người tiêu thụ lẫn người sản xuất. Nông dân cũng phải được hỗ trợ phía đầu vào: chỉ cần Nhà nước giữ vững giá phân bón thôi, chẳng hạn, cũng giúp họ cầm cự trước lạm phát.
Chỉ khi nào thu nhập tương đối ổn định, nông dân mới có thể nghĩ đến đầu tư để phát triển hay cải thiện năng suất và sản phẩm. Chỉ khi nào có và áp dụng các chính sách điều phối về nông sản và giá cả, nông dân mới mong thoát khỏi cuộc sống bấp bênh, làm mùa nào biết vụ ấy, chỉ một xui xẻo nhỏ cũng có thể khánh kiệt.
Những biện pháp thường cần phải tính để bảo vệ nông nghiệp, nông dân khi hội nhập là phát triển hệ thống an sinh xã hội, bảo hiểm cho mất mùa hay mất thu nhập vì nhập khẩu tăng quá nhanh hay biến động giá thị trường.
( Theo Đỗ Tuyết Khanh // SGTT Online)
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Chuyển nhượng, cho thuê hoặc hợp tác phát triển nội dung trên các tên miền:
Quý vị quan tâm xin liên hệ: tieulong@6vnn.com