Theo đánh giá của Bộ Công Thương, trong 6 tháng đầu năm 2009, nước ta tiếp tục chịu ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới, nền kinh tế nói chung và ngành Công Thương nói riêng đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức.
Nhu cầu tiêu dùng ở cả thị trường trong nước và ngoài nước suy giảm, nên sản xuất và xuất khẩu cũng suy giảm theo. Giá cả nhiều loại hàng hoá, lương thực, thực phẩm tăng đã ảnh hưởng đến sức mua của dân cư. Một số doanh nghiệp tạm ngừng sản xuất hoặc sản xuất cầm chừng đã làm cho một bộ phận người lao động thiếu việc làm nên đời sống càng khó khăn hơn.
Trước tình hình đó, Chính phủ đã kịp thời có Nghị quyết 30/2008/NQ-CP, Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP và Nghị quyết 01/2009/NQ-CP đề ra nhiều giải pháp, chính sách quyết liệt nhằm tập trung kích thích kinh tế, kích cầu tiêu dùng, ngăn chặn suy giảm kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, tập trung vào khu vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn và giảm nghèo... nên sau một thời gian được các Bộ, ban ngành và các địa phương khẩn trương triển khai thực hiện, các giải pháp, chính sách trên đã từng bước phát huy tác dụng, được người dân và doanh nghiệp đón nhận tích cực, nền kinh tế tiếp tục giữ được sự ổn định và có tăng trưởng tuy chậm nhưng vẫn đạt mức khá so với khu vực. Đồng thời đây cũng là cơ hội tốt cho các doanh nghiệp tái cơ cấu sản xuất, kinh doanh để duy trì hoạt động ổn định và tiếp tục phát triển.
Dự kiến tốc độ tăng GDP 6 tháng đầu năm 2009 (theo giá so sánh) tăng 3,9% (cùng kỳ tăng 6,5%), trong đó công nghiệp và xây dựng tăng 3,48% (riêng công nghiệp tăng 2,4%); dịch vụ tăng 5,5%; nông lâm ngư nghiệp tăng 1,25%. Riêng tốc độ tăng trưởng thương mại nội địa được duy trì khá, tăng 20%, chỉ số giá tiêu dùng tăng 2,68% so với tháng 12/2008 và tăng 10,27% so với cùng kỳ.
Về giá trị sản xuất công nghiệp toàn ngành 6 tháng ước đạt 324,2 nghìn tỷ đồng, tăng 4,8% so với cùng kỳ (cùng kỳ năm 2008 tăng 16,5%) , trong đó, khu vực nhà nước trung ương tăng 3,1%, khu vực nhà nước địa phương giảm 4%, khu vực ngoài nhà nước tăng 7,6% và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 4,5%.Nhìn chung, giá trị sản xuất công nghiệp tuy tăng trưởng ở mức thấp nhưng kể từ tháng 2/2009 đều có tăng trưởng, tháng sau cao hơn tháng trước,đặc biệt là trong quý II đã có những chuyến biến tích cực hơn.
Giá trị gia tăng của ngành công nghiệp trong 6 tháng đầu năm tăng không cao, chỉ đạt 2,4% (cùng kỳ là 8,3%). Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế hiện nay thì đó là mức tăng đáng khích lệ và mục tiêu tăng trưởng giá trị gia tăng toàn ngành năm 2009 theo kế hoạch điều chỉnh có thể sẽ đạt được.
Trong khu vực công nghiệp địa phương, cùng với khó khăn chung của cả nước, giá trị sản xuất công nghiệp của các vùng kinh tế mặc dù đều tăng so với cùng kỳ năm 2008, trong đó tăng cao nhất là vùng Đông Nam Bộ, tiếp theo là vùng Đồng bằng Sông Hồng, vùng Đồng bằng Sông Cửu Long... Tuy nhiên các mức tăng này đều thấp hơn so với mức tăng cùng kỳ năm 2008 so với 2007.
Mức tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp của hầu hết các tỉnh, thành phố đạt thấp hơn mức tăng cùng kỳ năm trước. Thành phố Hồ Chí Minh có giá trị sản lượng công nghiệp lớn nhất cả nước, nhưng trong 6 tháng đầu năm chỉ tăng 3,8%, kế theo là Hà Nội tăng 3,9% thấp hơn mức tăng trưởng chung của toàn ngành. Một số địa phương có giá trị sản xuất công nghiệp lớn đạt mức tăng trưởng cao so với cùng kỳ là: Quảng Ninh tăng 11,5%, Bà Rịa -Vũng Tàu tăng 10,6%, Khánh Hoà tăng 7,5%, Cần Thơ tăng 7,5%, Đồng Nai tăng 7,1%, Hải Phòng tăng 6,9%, Thanh Hoá tăng 6,8%, Bình Dương tăng 6,1%... Một số địa phương sản lượng công nghiệp giảm là: Đà Nẵng giảm 3,7%, Hải Dương giảm 4,4%, Phú Thọ giảm 5,3%, Vĩnh Phúc giảm 12,1%...
Trong tháng 6 đầu năm, tình hình sản xuất của nhiều ngành công nghiệp bắt đầu có sự phục hồi nên tăng trưởng của một số sản phẩm chủ yếu khá tốt, tương đương với tốc độ tăng của năm ngoái, thậm chí một số sản phẩm còn cao hơn như: điện sản xuất (18,9%), than sạch (36%), dầu thô (10,2%), điều hoà nhiệt độ (146,4%), phân lân các loại (16,7%)...Vì vậy, tuy đạt mức tăng trưởng thấp trong quý I nhưng cộng chung cả 6 tháng, tăng trưởng của nhiều sản phẩm chủ yếu đã đạt mức khá so với cùng kỳ như: điện sản xuất tăng 8,2%, dầu thô tăng 17,7%, thép tròn các loại tăng 12,6%, phân urê tăng 5,8%, điều hoà nhiệt độ tăng 44,7%, tủ lạnh, tủ đá tăng 16,1%, giày dép,ủng bằng da giả cho người lớn tăng 15,6%, thuốc lá điếu tăng 14,6%, bia tăng 6,6%, xà phòng giặt tăng 7,4%... Tuy nhiên, cũng có những sản phẩm giảm, như: lốp ô tô máy kéo giảm 14,6%, than sạch giảm 2,1%, vải dệt từ sợi bông giảm 23,2%; quần áo người lớn giảm 21,4%, giấy bìa giảm 23,5%, sữa bột giảm 11,5; dầu thực vật tinh luyện giảm 1,8%, xe chở khách giảm 26,3%... Tuy nhiên, tốc độ giảm đã thấp hơn so với quý I/2009.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Đó là chủ đề buổi tọa đàm diễn ra tại Hà Nội, do Báo Diễn đàn Doanh nghiệp và Viện Kinh tế Việt Nam phối hợp tổ chức, nhằm đưa ra đưa ra các nhận định, dự báo tình hình và các giải pháp cho doanh nghiệp trong bối cảnh kinh tế hiện nay.
Quản lý nhà nước về viễn thông là một trong những nội dung còn có nhiều ý kiến khác nhau tại phiên thảo luận của Quốc hội về dự án luật này, sáng 17/6.
Hiện nay, 50% kinh tế VN phụ thuộc vào kinh tế thế giới. Các số liệu thống kê cho thấy VN sẽ cần một khoảng thời gian dài để lấy lại đà tăng trưởng cải thiện chất lượng tăng trưởng. Vì vậy Chính phủ cần sớm công bố minh bạch chiến lược phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Và chính sách tài chính tiền tệ sẽ là huyết mạch để giải bài toán kinh tế của VN.
Bộ Tài chính vừa đề nghị các cấp, các ngành xây dựng dự toán ngân sách Nhà nước năm 2010 cần tiếp tục thực hiện có hiệu quả các giải pháp đã đề ra trong năm 2009.
Quốc hội đã quyết định điều chỉnh mức tăng giá tiêu dùng trong năm nay từ dưới 15% xuống dưới 10% (tức là chỉ còn bằng một nửa tốc độ tăng của năm trước).
Mặc dù mô hình kinh tế thị trường, cho đến nay, đươc xem là mô hình kinh tế sử dụng các nguồn lực sản xuất có hiệu quả nhất, nhưng tự thân nó tồn tại ba khuyết tật cố hữu: (1) khủng hoảng cục bộ và khủng hoảng chu kỳ luôn luôn xảy ra do sự hoạt động của "bàn tay vô hình", ngay cả khi có sự can thiệp của Nhà nước; (2) xuất phát từ động cơ tối đa hóa lợi nhuận, nên luôn luôn xảy ra khuynh hướng các doanh nghiêp hy sinh lợi ích cộng đồng; (3) mô hình kinh tế làm giàu cho thiểu số, không thể mọi người cùng làm giàu được.
Theo Tổng cục Thống kê, mức tăng trưởng kinh tế 6 tháng đầu năm cho thấy Chính phủ đã lượng định đúng tình hình, đề ra các giải pháp, chính sách phù hợp với thực tiễn và đánh dấu sự thành công bước đầu trong chỉ đạo điều hành vĩ mô .Tuy nhiên, nhiệm vụ 6 tháng cuối năm còn rất nặng nề bởi để đạt được mục tiêu Quốc hội đề ra cho cả năm 2009, GDP 6 tháng cuối năm phải tăng khoảng 5,9%.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Với sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 cùng tham vọng và thực lực của Trung Quốc cũng như những tuyên bố bất chấp dư luận quốc tế của giới lãnh đạo nước này trong thời gian qua đã đặt Việt Nam trước việc phải chấp nhận một thực tế là trong giai đoạn tới, đất nước sẽ phải phát triển kinh tế trong điều kiện không có có môi trường hoàn toàn thuận lợi do những lo ngại về bất ổn.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Các nước lớn đóng vai trò rất quan trọng trong việc dàn xếp các cuộc xung đột mang tính quốc tế và nhiều khi họ sử dụng các vấn đề của thiên hạ để phục vụ cho những tính toán của riêng mình
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
Sau gần 25 năm đổi mới, bộ mặt kinh tế, xã hội Việt Nam đã khác hẳn. So với 10 năm trước, đời sống của dân chúng nói chung hiện nay được cải thiện nhiều, vị trí của Việt Nam trên thế giới cũng tăng lên đáng kể. Rõ ràng ở đây có vấn đề hiệu suất phát triển, có khả năng bỏ lỡ các cơ hội mà nguyên nhân sâu xa nằm ở cơ chế, ở sự chậm hoàn thiện cơ chế thị trường, ở năng lực nắm bắt cơ hội, và việc thực thi các chính sách, vì các điều kiện về bối cảnh khu vực và cơ hội phát triển Việt Nam không bất lợi so với các nước lân cận.
Bàn cờ kinh tế VN bị chia thành rất nhiều mảnh nhỏ. Các mảnh này thường bị chi phối bởi các nhóm độc quyền và đặc quyền. Điểm yếu cơ bản nhất trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam là tăng trưởng chủ yếu nhờ vào việc bán tài nguyên và gia công trình độ thấp, nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà nước vốn kém hiệu quả làm chủ đạo.
Việt Nam tăng 18 bậc lên vị trí thứ 71 trong bảng chỉ số về môi trường thương mại toàn cầu năm 2010 vừa được WEF công bố. Trong tổng số 125 nền kinh tế được WEF xem xét năm nay Singapore và Hồng Công tiếp tục dẫn đầu thế giới về phương diện tạo điều kiện thuận lợi cho tăng cường trao đổi thương mại toàn cầu.
Hiện nay quy mô của các vùng kinh tế trọng điểm (VKTTĐ) đã mở rộng đến gấn 25% diện tích và chiếm khoảng 70% thu nhập kinh tế của cả nước. Một vấn đề đặt ra là: quan điểm ngày càng mở rộng quy mô diện tích của các VKTTĐ của Việt Nam có hợp lý hay không? Làm thế nào để các VKTTĐ phải thực sự là động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế của cả nước ,có một thế đứng vững chắc trong tương lai nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
Ngày 17-5, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) đã tổ chức hội thảo tham vấn cho dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 5 năm 2011-2015, với sự tham gia của đại diện các cơ quan quốc tế. Nội dung chủ yếu nêu lên bức tranh toàn cảnh về KT-XH, cùng những vấn đề liên quan khi nước ta bước vào giai đoạn "đệm" chuyển tiếp để cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020.
Bên cạnh những vấn đề quản lý đô thị, trung tâm hành chính quốc gia… thì bài toán kinh tế là băn khoăn lớn nhất khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về đồ án quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, sáng 11/5.
Kể từ khi khu kinh tế ven biển đầu tiên là Chu Lai được thành lập năm 2003, đến nay đã có 14 khu kinh tế biển được thành lập, gồm 2 khu ở đồng bằng sông Hồng, 10 khu ở vùng duyên hải miền Trung và 2 khu ở miền Nam. Theo Quy hoạch phát triển các KKT biển đến năm 2020 cả nước sẽ có 15 khu kinh tế biển với kinh phí đầu tư khoảng 162.000 tỷ đồng và tạo việc làm cho khoảng 500.000 ngàn người.
Tại bài viết mới nhất trên blog của mình, TS. Trần Công Hòa đã phân tích và đưa ra một số khuyến nghị về hoạch định chính sách và điều hành nền kinh tế 2010: tiếp tục giảm giá VND; cắt giảm chi tiêu công; tăng tính độc lập của NHNN; kiên quyết cho phá sản những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ; điều chỉnh chính sách thuế ở một số lĩnh vực theo phương thức lũy tiến; phát triển công nghiệp phụ trợ;...
Tăng trưởng luôn luôn là một cuộc trường chinh. Vì vậy, không thể chỉ vì tăng trưởng ngắn hạn mà hy sinh sự ổn định và bền vững trong dài hạn. Cổ nhân ngày xưa có câu “dục tốc bất đạt”, không những thế cái giá phải trả cho kinh tế bất ổn rất lớn, chỉ cần nhìn sang mấy nước xung quanh như Thái Lan, Indonesia hay Philippines là có thể thấy rất rõ điều này.
Cải cách cơ cấu là một đòi hỏi nghiệt ngã đối với tất cả các nước muốn tiến bước trên con đường đi đến phồn vinh. Thế nhưng, có nhiều nước không chủ động vượt qua đòi hỏi này khi tình thế kinh tế còn thuận lợi và thường bắt đầu nó quá muộn khi đất nước đã rơi vào khủng hoảng. Điều này lý giải tại sao nhiều nước có khởi đầu tốt nhưng rồi sa lầy trong cạm bẫy của mức thu nhập trung bình ...
Năm 2009, tăng trưởng GDP đạt 5,32%; lạm phát được kiềm chế dưới 7%; hệ số ICOR là 5, 16. Những con số này có thể cho cảm nhận kinh tế vĩ mô đang ở tình trạng khá ổn định. Tuy nhiên Tổng cục Thống kê cho rằng các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc, bất bình đẳng giầu nghèo tăng, chậm được khắc phục,...
Nền kinh tế của Việt Nam đã và đang ngày một trở nên phức tạp hơn, với các cơ chế, thị trường, tổ chức và lực lượng kinh tế mới ra đời trong suốt hơn hai thập niên đổi mới. Sự gấp gáp của cuộc đua tranh kinh tế được nhân lên bằng hành trình hội nhập, trong đó Việt Nam là thành viên mới của WTO.