Mặc dù mô hình kinh tế thị trường, cho đến nay, đươc xem là mô hình kinh tế sử dụng các nguồn lực sản xuất có hiệu quả nhất, nhưng tự thân nó tồn tại ba khuyết tật cố hữu: (1) khủng hoảng cục bộ và khủng hoảng chu kỳ luôn luôn xảy ra do sự hoạt động của "bàn tay vô hình", ngay cả khi có sự can thiệp của Nhà nước; (2) xuất phát từ động cơ tối đa hóa lợi nhuận, nên luôn luôn xảy ra khuynh hướng các doanh nghiêp hy sinh lợi ích cộng đồng; (3) mô hình kinh tế làm giàu cho thiểu số, không thể mọi người cùng làm giàu được.
Ðổi mới nội dung và phương thức quản lý nhà nước về kinh tế
Dù nền kinh tế nước ta xây dựng mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), nhưng trước hết đã là thị trường thì vẫn chịu tác động của ba thuộc tính nói trên. Do đó vấn đề đặt ra là không phải "trách cứ" mặt trái của kinh tế thị trường, mà là phải làm thế nào để phát huy cao nhất vai trò của Nhà nước nhằm hạn chế những tiêu cực do thuộc tính của thị trường tạo ra. Nhà nước XHCN phải thể hiện tính ưu việt trong việc hạn chế những khuyết tật của thị trường, nhờ vào các chính sách ưu tiên phục vụ lợi ích của cộng đồng; xử lý được xung đột của các nhóm lợi ích do thị trường tạo ra, thông qua bốn nhóm công cụ là chức năng quản lý nhà nước với hệ thống pháp luật; công tác kế hoạch hóa; các chính sách kinh tế vĩ mô và lực lượng vật chất của Nhà nước (kinh tế Nhà nước). Dưới tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, nền kinh tế nước ta đã bộc lộ những tồn tại, yếu kém, có thể rút ra bài học kinh nghiệm về việc sử dụng bốn nhóm công cụ quản lý kinh tế nêu trên, chức năng và vai trò của Nhà nước trong điều kiện vận hành của cơ chế kinh tế thị trường.
Trong hai thập niên qua, các cuộc khủng hoảng lớn nhỏ trên thế giới đều có nguyên nhân từ "bong bóng"của thị trường bất động sản (BÐS). Thị trường tài chính Mỹ sụp đổ bắt nguồn từ thị trường tín dụng BÐS dưới chuẩn, tạo ra "bong bóng" từ các công cụ chứng khoán hóa BÐS. Ðầu năm 2008, thị trường thế giới đã hình thành "một cơn bão lửa" là sự tăng giá bất thường của ba nhóm hàng hóa chính: Nhiên liệu, thực phẩm và kim loại. Trong khi đó, thị trường tài chính bắt đầu dấu hiệu "đóng băng" của giai đoạn tiền khủng hoảng. Nền kinh tế Việt Nam chịu sức ép giữa "băng" và "lửa" cùng với những tồn tại của cơ cấu kinh tế, những nhược điểm trong quản lý điều hành đã gây nên những khó khăn cực điểm trong nửa đầu năm 2008. Thực tế trên đòi hỏi chúng ta phải đánh giá nghiêm túc về vai trò của Nhà nước trong quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong điều kiện ngày càng hội nhập sâu với nền kinh tế toàn cầu, cả nội dung lẫn phương thức quản lý. Ðây là vấn đề hàng đầu cần tập trung nghiên cứu nhằm đổi mới nội dung và phương thức quản lý nhà nước về kinh tế cho giai đoạn "hậu khủng hoảng".
Cơ hội tái cấu trúc nền kinh tế
Dưới tác động của cuộc khủng hoảng này, những nhược điểm trong mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đã bộc lộ hoàn toàn. GS M.Poóc-tơ, cha đẻ của lý thuyết cạnh tranh, lần đầu đến nước ta gần đây, đã cho rằng, mô hình tăng trưởng của Việt Nam đã đạt đến đỉnh. Nếu càng thúc đẩy tăng trưởng nhanh dựa vào động lực mở rộng quy mô vốn, giá trị gia tăng thấp và sự khai thác thái quá đặc điểm lao động rẻ, thì không thể cạnh tranh và càng ngày càng khó khăn. Mô hình tăng trưởng mà chúng ta đang theo đuổi chính là cái bẫy của sự phát triển thiếu bền vững. Ðây là bài học lớn thứ hai cần được rút ra "cái phúc" chứa đựng trong "cái họa". Tức là lúc chúng ta có thể "chuyển thách thức thành cơ hội tái cấu trúc nền kinh tế". Tiến hành một cuộc "đại phẫu thuật" nền kinh tế, chứ không chỉ dừng lại việc "sơ cứu" bằng các biện pháp tình thế, mặc dù các biện pháp đó rất cần thiết để ngăn chặn suy giảm tốc độ tăng trưởng trước mắt. Nhưng quan trọng hơn là xây dựng chiến lược tình thế, lồng tất cả chính sách ngắn hạn với chính sách trung, dài hạn; các mục tiêu cho thời kỳ 2009 - 2010 với mục tiêu 2011-2015, tức là thời kỳ kinh tế thế giới phục hồi. Thời kỳ hậu khủng hoảng trật tự kinh tế thế giới không tránh khỏi quá trình sắp xếp lại, một cuộc chạy đua giữa các nền kinh tế, giữa các thị trường và quá trình đó liên quan đến số phận các nước đang phát triển. Vậy chúng ta sẽ ở đâu và làm gì trong quá trình này? Ðây là vấn đề cần tập trung nghiên cứu để làm cơ sở cho chính sách dài hạn, nếu chậm trễ chúng ta sẽ rơi vào thế bị động.
Do đó, cần tiến hành xây dựng ngay một chiến lược tình thế, thực hiện ngay trong hai năm 2009-2010 và gối đầu trong năm năm sau nhằm tái cấu trúc nền kinh tế Việt Nam.
Thứ nhất là, tái cấu trúc nội bộ các ngành kinh tế. Vấn đề không phải là sản xuất ra cái gì mà sản xuất bằng cách nào có hiệu quả nhất. Dường như chúng ta cứ nhầm lẫn rằng, máy laptop thì có công nghệ cao, còn làm cái khác thì không cao. Công nghệ cao thể hiện ở công đoạn sản xuất, chứ không phải ở kết quả sản xuất. Nếu sản xuất máy laptop bằng cách nhập 100% linh kiện về rồi ráp lại, thì không có giá trị gia tăng cao, hàm lượng khoa học kỹ thuật cao, nên cũng không có công nghệ cao. Nếu không có chính sách để thúc đẩy các doanh nghiêp chuyển từ gia công sang sản xuất thì nền kinh tế nước ta tiếp tục tồn tại một cơ cấu nội bộ các ngành kinh tế thiếu cạnh tranh.
Thứ hai là, cấu trúc lại thị trường, tức là mối quan hệ giữa thị trường nội địa và thị trường quốc tế. Cấu trúc lại thị trường để có sự đồng nhất giữa thị trường xuất khẩu và thị trường nội địa. Không còn phân biệt hàng hóa sản xuất cho xuất khẩu và sản xuất cho thị trường nội địa, mà chỉ có một thị trường - thị trường của các nước thành viên WTO. Chính sách hướng về xuất khẩu của Việt Nam áp dụng trong các năm qua không phải sai mô hình kinh tế, mà sai ở mô hình sản xuất, tức là hướng về xuất khẩu, nhưng chúng ta lại không chuyển được nền kinh tế từ gia công sang sản xuất. Mô hình phát triển của các nước Ðông Á trong ba thập niên qua cho thấy, họ định hướng chiến lược xuất khẩu, họ đi nhanh vào sản xuất, đi nhanh vào công đoạn có giá trị gia tăng cao và mất khoảng mười năm để chuyển nền kinh tế từ gia công sang sản xuất. Tỷ lệ giá trị gia tăng trên giá trị sản xuất công nghiệp của nước ta ngày càng giảm. Tính gia công của nền kinh tế ngày càng cao, nên dẫn đến việc nhập siêu triền miên là điều không tránh khỏi.
Thứ ba là, tái cấu trúc hệ thống các doanh nghiệp (DN). Hiện nay các DN đang đứng trước một tình hình gọi là "thị trường sàng lọc". DN nào khỏe thì có cơ hội phát triển nhanh, còn yếu thì có nguy cơ phá sản. Do đó các chính sách hiện nay cần giúp DN nhưng đừng để xảy ra tình trạng mất tiền cho những DN mà bản thân họ không biết cách "tự cứu" hoặc tạo thêm thói quen sống nhờ bao cấp. Nhưng đối với những DN mà khó khăn hiện nay có phần do sự thay đổi chính sách của chúng ta tạo ra, mà chỉ cần hỗ trợ có thể đứng lên được thì không thể để phá sản. Chính sách nên hướng vào đối tượng này. Do đó, cần rà lại các chính sách hiện nay, để thật sự tạo cơ hội cho các DN có điều kiện tự mình tái cấu trúc nhằm phát triển bền vững hơn.
Thứ tư là, tái cơ cấu đầu tư. Thời điểm hiện nay là cơ hội để đầu tư vào cơ sở hạ tầng và nông thôn. Nếu đẩy được thị trường xây dựng tăng thêm từ 0,5% đến 0,7%, thì GDP có thể đạt 5,5% (con số mà Ngân hàng thế giới dự báo). Chúng ta kỳ vọng Việt Nam sẽ đẩy thị trường xây dựng lên, vì có dư địa để phát triển. Trong năm nay và đầu năm tới không có một dư địa nào cho nông nghiệp hay công nghiệp mà có thể đột biến được. Do đó, cần tháo nhanh "nút cổ chai" về thủ tục đầu tư xây dựng cơ bản. Như vậy có thể tái cấu trúc lại phần đầu tư, nhất là đầu tư từ ngân sách.
Thứ năm là, thể chế kinh tế. Có bốn nhóm công cụ điều tiết vĩ mô thông dụng mà quốc gia nào cũng áp dụng, nhưng nó biến ảo tùy thời kỳ, gồm: Chính sách về tài khóa; chính sách tiền tệ; chính sách chi tiêu; chính sách ngoại thương. Chúng ta tái cấu trúc ở cấp độ thể chế để nâng cao vai trò quản lý vĩ mô. Thể chế kinh tế phù hợp sẽ biến thành lực lượng vật chất, mà "khoán 10" trong nông nghiệp là một điển hình nhất về đổi mới thể chế kinh tế.
Với cách nhìn cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu như trên, thì đây không chỉ có thách thức mà đang là thời cơ để tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng cạnh tranh, phát triển bền vững.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Theo Tổng cục Thống kê, mức tăng trưởng kinh tế 6 tháng đầu năm cho thấy Chính phủ đã lượng định đúng tình hình, đề ra các giải pháp, chính sách phù hợp với thực tiễn và đánh dấu sự thành công bước đầu trong chỉ đạo điều hành vĩ mô .Tuy nhiên, nhiệm vụ 6 tháng cuối năm còn rất nặng nề bởi để đạt được mục tiêu Quốc hội đề ra cho cả năm 2009, GDP 6 tháng cuối năm phải tăng khoảng 5,9%.
Theo báo cáo của UBND thành phố, 6 tháng đầu năm 2009, giá trị sản xuất của thành phố đạt 15.258 tỉ đồng, tăng 8,94%; giá trị tăng thêm GDP được 6.372 tỉ đồng, tăng 7,82% so với cùng kỳ năm 2008. Trong đó, giá trị tăng thêm của khu vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản được 749 tỉ đồng, chiếm tỷ trọng 15,18% trong cơ cấu GDP; khu vực công nghiệp-xây dựng được 2.539 tỉ đồng, chiếm 15,18% cơ cấu GDP, khu vực thương mại- dịch vụ được 3.084 tỉ đồng, chiếm tỷ trọng 48,67% cơ cấu GDP của thành phố.
Theo thống kê của một số tỉnh trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) như Trà Vinh, Long An, Sóc Trăng, Bến Tre... vùng qui hoạch trồng mía nguyên liệu đang thu hẹp dần, nhường chỗ cho cây trồng ngắn ngày, các dự án công nghiệp... Do đó, nguy cơ thiếu mía nguyên liệu cung cấp cho nhà máy đường trước niên vụ mới 2009- 2010 đang đặt ra nhiều thách thức cho các địa phương trồng mía...
Dự báo đến năm 2010, dân số tại khu vực đô thị sẽ lên tới khoảng 46 triệu người, tức chiếm khoảng 45% tổng dân số cả nước. Trong khi vấn đề lao động, việc làm ở đô thị chưa được giải quyết tốt, thì quá trình đô thị hóa nhanh đã đẩy một bộ phận lao động dư thừa từ khu vực nông thôn ra thành thị, gây thêm áp lực về dân số và việc làm cho đô thị. Trên cả nước hiện có 673 đô thị, trong đó có 5 thành phố trực thuộc trung ương, trên 30 thành phố trực thuộc tỉnh, 60 thị xã và hơn 500 thị trấn. Nhưng các đô thị sinh thái vẫn còn là ước mơ...
Trong cuộc tọa đàm về cuộc khủng hoảng và giải pháp hậu khủng hoảng cho Việt Nam, do Trung tâm Nghiên cứu kinh doanh và hỗ trợ doanh nghiệp (BSA) tổ chức vào tuần trước, nhiều chuyên gia kinh tế tỏ ra bi quan về khả năng phục hồi nhanh chóng của kinh tế Việt Nam.
Trong phần trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khoá XII, ông Cao Đức Phát - Bộ trưởng Bộ NN - PTNT, được đánh giá là “trả bài” khá tốt. Tuy nhiên cũng cho thấy ngành nông nghiệp nước ta còn phụ thuộc quá nhiều, ngay cả những lĩnh vực vốn được coi là thế mạnh của VN.
Trong báo cáo mới nhất về thực phẩm và đồ uống của Việt Nam, trang mạng "Research and Markets", chuyên cung cấp thông tin tư liệu và nghiên cứu thị trường, khẳng định Việt Nam vẫn là thị trường đầu tư đầy hấp dẫn, bất chấp khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay.
Từ đầu năm đến nay, Chính phủ đã đưa ra hai gói vốn kích cầu đầu tư và kích cầu tiêu dùng lên tới 162.000 tỷ đồng, đây là nguồn vốn khá lớn để duy trì tăng trưởng kinh tế. Nỗi lo đối với việc triển khai thực hiện hai gói kích cầu này là phải kiểm tra, giám sát như thế nào để phát huy hiệu quả tốt nhất với mục đích chống suy giảm kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Với sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 cùng tham vọng và thực lực của Trung Quốc cũng như những tuyên bố bất chấp dư luận quốc tế của giới lãnh đạo nước này trong thời gian qua đã đặt Việt Nam trước việc phải chấp nhận một thực tế là trong giai đoạn tới, đất nước sẽ phải phát triển kinh tế trong điều kiện không có có môi trường hoàn toàn thuận lợi do những lo ngại về bất ổn.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Các nước lớn đóng vai trò rất quan trọng trong việc dàn xếp các cuộc xung đột mang tính quốc tế và nhiều khi họ sử dụng các vấn đề của thiên hạ để phục vụ cho những tính toán của riêng mình
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
Sau gần 25 năm đổi mới, bộ mặt kinh tế, xã hội Việt Nam đã khác hẳn. So với 10 năm trước, đời sống của dân chúng nói chung hiện nay được cải thiện nhiều, vị trí của Việt Nam trên thế giới cũng tăng lên đáng kể. Rõ ràng ở đây có vấn đề hiệu suất phát triển, có khả năng bỏ lỡ các cơ hội mà nguyên nhân sâu xa nằm ở cơ chế, ở sự chậm hoàn thiện cơ chế thị trường, ở năng lực nắm bắt cơ hội, và việc thực thi các chính sách, vì các điều kiện về bối cảnh khu vực và cơ hội phát triển Việt Nam không bất lợi so với các nước lân cận.
Bàn cờ kinh tế VN bị chia thành rất nhiều mảnh nhỏ. Các mảnh này thường bị chi phối bởi các nhóm độc quyền và đặc quyền. Điểm yếu cơ bản nhất trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam là tăng trưởng chủ yếu nhờ vào việc bán tài nguyên và gia công trình độ thấp, nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà nước vốn kém hiệu quả làm chủ đạo.
Việt Nam tăng 18 bậc lên vị trí thứ 71 trong bảng chỉ số về môi trường thương mại toàn cầu năm 2010 vừa được WEF công bố. Trong tổng số 125 nền kinh tế được WEF xem xét năm nay Singapore và Hồng Công tiếp tục dẫn đầu thế giới về phương diện tạo điều kiện thuận lợi cho tăng cường trao đổi thương mại toàn cầu.
Hiện nay quy mô của các vùng kinh tế trọng điểm (VKTTĐ) đã mở rộng đến gấn 25% diện tích và chiếm khoảng 70% thu nhập kinh tế của cả nước. Một vấn đề đặt ra là: quan điểm ngày càng mở rộng quy mô diện tích của các VKTTĐ của Việt Nam có hợp lý hay không? Làm thế nào để các VKTTĐ phải thực sự là động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế của cả nước ,có một thế đứng vững chắc trong tương lai nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
Ngày 17-5, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) đã tổ chức hội thảo tham vấn cho dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 5 năm 2011-2015, với sự tham gia của đại diện các cơ quan quốc tế. Nội dung chủ yếu nêu lên bức tranh toàn cảnh về KT-XH, cùng những vấn đề liên quan khi nước ta bước vào giai đoạn "đệm" chuyển tiếp để cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020.
Bên cạnh những vấn đề quản lý đô thị, trung tâm hành chính quốc gia… thì bài toán kinh tế là băn khoăn lớn nhất khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về đồ án quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, sáng 11/5.
Kể từ khi khu kinh tế ven biển đầu tiên là Chu Lai được thành lập năm 2003, đến nay đã có 14 khu kinh tế biển được thành lập, gồm 2 khu ở đồng bằng sông Hồng, 10 khu ở vùng duyên hải miền Trung và 2 khu ở miền Nam. Theo Quy hoạch phát triển các KKT biển đến năm 2020 cả nước sẽ có 15 khu kinh tế biển với kinh phí đầu tư khoảng 162.000 tỷ đồng và tạo việc làm cho khoảng 500.000 ngàn người.
Tại bài viết mới nhất trên blog của mình, TS. Trần Công Hòa đã phân tích và đưa ra một số khuyến nghị về hoạch định chính sách và điều hành nền kinh tế 2010: tiếp tục giảm giá VND; cắt giảm chi tiêu công; tăng tính độc lập của NHNN; kiên quyết cho phá sản những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ; điều chỉnh chính sách thuế ở một số lĩnh vực theo phương thức lũy tiến; phát triển công nghiệp phụ trợ;...
Tăng trưởng luôn luôn là một cuộc trường chinh. Vì vậy, không thể chỉ vì tăng trưởng ngắn hạn mà hy sinh sự ổn định và bền vững trong dài hạn. Cổ nhân ngày xưa có câu “dục tốc bất đạt”, không những thế cái giá phải trả cho kinh tế bất ổn rất lớn, chỉ cần nhìn sang mấy nước xung quanh như Thái Lan, Indonesia hay Philippines là có thể thấy rất rõ điều này.
Cải cách cơ cấu là một đòi hỏi nghiệt ngã đối với tất cả các nước muốn tiến bước trên con đường đi đến phồn vinh. Thế nhưng, có nhiều nước không chủ động vượt qua đòi hỏi này khi tình thế kinh tế còn thuận lợi và thường bắt đầu nó quá muộn khi đất nước đã rơi vào khủng hoảng. Điều này lý giải tại sao nhiều nước có khởi đầu tốt nhưng rồi sa lầy trong cạm bẫy của mức thu nhập trung bình ...
Năm 2009, tăng trưởng GDP đạt 5,32%; lạm phát được kiềm chế dưới 7%; hệ số ICOR là 5, 16. Những con số này có thể cho cảm nhận kinh tế vĩ mô đang ở tình trạng khá ổn định. Tuy nhiên Tổng cục Thống kê cho rằng các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc, bất bình đẳng giầu nghèo tăng, chậm được khắc phục,...
Nền kinh tế của Việt Nam đã và đang ngày một trở nên phức tạp hơn, với các cơ chế, thị trường, tổ chức và lực lượng kinh tế mới ra đời trong suốt hơn hai thập niên đổi mới. Sự gấp gáp của cuộc đua tranh kinh tế được nhân lên bằng hành trình hội nhập, trong đó Việt Nam là thành viên mới của WTO.