Năng suất lao động xã hội là nhân tố bảo đảm cho sản xuất phát triển và đời sống con người được nâng cao. Nhờ tăng năng suất lao động mà khối lượng sản phẩm vật chất và dịch vụ cho xã hội, doanh thu và lợi nhuận tăng. Tăng năng suất lao động xã hội là yếu tố quyết định nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, góp phần mở rộng quan hệ và hợp tác quốc tế, thúc đẩy hội nhập...
Nhân tố tác động đến tăng năng suất lao động
Theo những nghiên cứu gần đây thì có nhiều nhân tố tác động đến tăng năng suất lao động như: chất lượng nguồn nhân lực và tác phong làm việc của người lao động; khoa học, kỹ thuật và công nghệ; tổ chức và cơ cấu sản xuất; quản lý lao động; tài nguyên thiên nhiên và khí hậu; ổn định chính trị xã hội quốc gia và ổn định của doanh nghiệp, cơ sở sản xuất...
Trong các nhân tố đó, chất lượng nguồn nhân lực và tác phong làm việc của người lao động có tác động mạnh nhất đến năng suất lao động, vì việc kết hợp người lao động với tư liệu sản xuất và đối tượng lao động để tạo ra các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ xã hội. Trình độ lành nghề và tác phong làm việc của người lao động được thể hiện ra khi họ sử dụng các công cụ sản xuất thành thạo, đáp ứng những yêu cầu về chất lượng sản phẩm, cùng những sản phẩm hàng hóa có tính chuyên nghiệp hóa. Người lao động có trình độ nghề nghiệp không những cần có kỹ năng lao động mà còn phải có sáng tạo trong quá trình sản xuất. Thực tế cho thấy chỉ khi nào người lao động, người quản lý có kiến thức và trình độ nghề nghiệp thì mới tiếp cận, nhanh chóng tiếp thu, vận dụng những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, có ý thức và tinh thần sáng tạo. Có thể nói, thành tựu trong sản xuất nông nghiệp của nước ta trong hơn 20 năm qua quan trọng nhất chính là do tăng năng suất lao động xã hội mà có.
Gắn liền với người lao động để tăng năng suất lao động là công cụ sản xuất với trang bị công nghệ và kỹ thuật ngày càng cao. Ðó là máy móc, thiết bị, công cụ sản xuất tiên tiến cùng các quy trình sản xuất và quản lý hiện đại, giảm bớt những chi phí trung gian. Khoa học, công nghệ, kỹ thuật luôn gắn với tổ chức bộ máy quản lý, quá trình hợp lý hóa sản xuất nhằm thúc đẩy sản xuất mang tính cạnh tranh hơn và người lao động làm việc hiệu quả hơn, sản phẩm nhiều hơn, chất lượng cao hơn, tiêu thụ được nhiều hơn...
Việc tăng năng suất lao động xã hội có tác động rất lớn đến cơ cấu lại nền kinh tế, thúc đẩy nhanh quá trình đổi mới quản lý nền kinh tế và thực hiện những chính sách an sinh xã hội. Chính vì vậy mà tăng năng xuất lao động xã hội là yêu cầu thường xuyên và cấp thiết để nền kinh tế của các quốc gia phát triển nhanh và bền vững. Như Lê-nin từng chỉ rõ: Suy cho cùng thì năng suất lao động là cái bảo đảm chắc chắn nhất cho chế độ xã hội này chiến thắng chế độ xã hội khác.
Giải pháp nâng cao năng suất lao động
Trong những năm từ 2001 đến 2008 năng suất lao động ở Việt Nam tăng gấp năm lần, nhưng còn nhỏ bé vì GDP và thu nhập bình quân đầu người thấp. Năng suất lao động tuy tăng nhưng không ổn định, không đều ở các ngành và thành phần kinh tế. Năng suất lao động ở thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài giảm sút, thành phần kinh tế ngoài nhà nước tăng liên tục với mức cao, thành phần kinh tế nhà nước tăng nhưng không ổn định. So với các nước thì năng suất lao động ở nước ta còn thấp, thí dụ năm 2006, so với Xin-ga-po chỉ bằng 4,5%, so với Mỹ bằng 4,2% và bằng 53,2% so với Trung Quốc và với Lào chỉ bằng 82,3%.
Ðể năng suất lao động tăng tốc hơn nữa, một vấn đề có ý nghĩa tiên quyết là nhận thức đầy đủ vai trò của năng suất lao động trong điều kiện mới. Năng suất lao động là nhân tố quyết định năng lực cạnh tranh quốc gia trong thời kỳ dài, chứ không chỉ trong ngắn hạn. Suốt mấy thập kỷ qua, nền kinh tế nước ta chủ yếu phát triển theo chiều rộng, dựa trên khai thác lao động giá rẻ và tài nguyên thiên nhiên, tăng cường độ lao động và tăng vốn đầu tư chứ chưa thật sự tính toán đầy đủ đến những hệ lụy cùng những hạn chế nên năng suất lao động tăng không ổn định, dẫn đến năng lực cạnh tranh quốc gia ở mức thấp.
Từ những thay đổi nhận thức này chúng ta cần phải thay đổi những chính sách để cho nền kinh tế phát triển theo chiều sâu và bền vững. Phải cơ cấu lại kinh tế của từng ngành và toàn bộ nền kinh tế, thay đổi cơ cấu đầu tư và chính sách sử dụng nguồn nhân lực cũng như thay đổi một cách căn bản để đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa và kinh tế trí thức, hội nhập, tham gia tích cực quá trình toàn cầu hóa.
Hiện nay, việc cơ cấu lại nền kinh tế đặt ra rất bức thiết vì sau cuộc khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu, xuất khẩu hàng hóa đang gặp khó khăn. Do vậy phải đẩy mạnh tái cơ cấu kinh tế trong các ngành kinh tế, nghề, sản phẩm, thành phần kinh tế, vùng kinh tế và cả về mô hình phát triển kinh tế theo hướng đáp ứng yêu cầu tiêu dùng cho sản xuất, tiêu dùng của dân cư và tiêu dùng của Nhà nước ngày một tăng (tiêu dùng nội địa) và nhu cầu xuất khẩu. Việc tái cơ cấu kinh tế cần xuất phát từ lợi thế có tầm dài hạn, nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, đóng góp nhiều cho xã hội, tăng thu nhập cho người lao động để tái sản xuất sức lao động. Coi trọng cơ cấu lại kinh tế của các ngành vì năng suất lao động đóng góp hơn 55% là do chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các ngành có năng suất lao động thấp sang ngành lao động có năng suất cao.
Trong bước chuyển đổi cơ cấu kinh tế, Nhà nước, các ngành chức năng cần nghiên cứu để bổ sung những chính sách, luật pháp liên quan đến người lao động ở mọi thành phần kinh tế, nhất là kinh tế ngoài Nhà nước nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của người lao động cũng như lợi ích hợp pháp của những chủ sở hữu. Những chính sách phù hợp có tác dụng khuyến khích người lao động làm việc có năng suất cao, có thêm thu nhập, hạn chế được đình công, lãn công và cũng động viên những chủ sở hữu đầu tư máy móc và công nghệ để làm ra các sản phẩm mới có chất lượng.
Ðối với nguồn nhân lực, cần tập trung làm hai việc có tác động đến năng suất lao động vừa cấp thiết vừa lâu dài là nâng cao chất lượng và đẩy nhanh sử dụng.
Những năm qua tại các thành phố, các khu công nghiệp đã thu hút, sử dụng khá nhiều lao động, nên tỷ lệ thất nghiệp năm 2000 là 6,42% đến năm 2008 giảm còn 4,6%. Trong thời gian tới cần đẩy nhanh hơn việc sử dụng lao động trên cơ sở phát triển các ngành kinh tế và dịch vụ mới, gắn liền với nâng cao trình độ tay nghề và tác phong làm việc của lao động.
Tiếp tục nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trên cơ sở , nền tảng tốt của giáo dục phổ thông như hiện nay, cần tập trung đổi mới đào tạo bậc đại học và dạy nghề theo hướng đào tạo nhân lực chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu thị trường, chú trọng một số ngành, nghề mới đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
(Theo Phạm Văn Khánh // Nhandan Online)
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Chuyển nhượng, cho thuê hoặc hợp tác phát triển nội dung trên các tên miền:
Quý vị quan tâm xin liên hệ: tieulong@6vnn.com