Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự chậm trễ trong quy hoạch điện VI là do thiếu vốn cũng như khó khăn trong công tác giải phóng mặt bằng, nếu không được tháo gỡ kịp thời thì thì nguy cơ thiếu điện vẫn sẽ hiện hữu trong qui hoạch điện VII.
Đó là những ý kiến thẳng thắn được các đại biểu đưa ra tại buổi báo cáo tổng kết quy hoạch điện VI và giải pháp thực hiện quy hoạch điện VII do Bộ Công thương tổ chức sáng 8/9, tại Hà Nội.
Áp lực vốn và nút thắt giá
Nhìn vào quy hoạch điện VI giai đoạn 2006-2015 có xét đến năm 2025 được thực hiện trong giai đoạn 2006-2010 do Vụ Năng lượng, Bộ Công thương báo cáo thì tổng công suất lắp nguồn xây dựng và đưa vào vận hành khoảng trên 10.000 MW chỉ đạt gần 70% kế hoạch đề ra, lưới điện truyền tải cũng chỉ đạt trên dưới 50% khối lượng quy hoạch.
Theo báo cáo của Tập đoàn điện lực Việt Nam (EVN) thì để đảm bảo đầu tư các dự án trong quy hoạch điện VI, tổng nhu cầu đầu tư của Tập đoàn đến năm 2015 dự kiến khoảng 832.000 tỷ đồng, nhưng trên thực tế số vốn huy động được mới chỉ đáp ứng 1/3 nhu cầu.
Ông Dương Quang Thành, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn điện lực Việt Nam chia sẻ, số vốn còn thiếu là 599.000 tỷ đồng vượt quá khả năng thu xếp của EVN và theo dự báo, tốc độ tăng trưởng phụ tải của tổng sơ đồ VI là rất lớn (17-20%), mỗi năm cần 2.000-3.000 MW tăng thêm mới đáp ứng đủ điện.
"Với tình hình vốn đầu tư thiếu nghiệm trọng trong giai đoạn này thì không thể xây dựng các dự án đúng theo tiến độ quy hoạch điện VI đã được phê duyệt," ông Thành cho hay.
Theo kế hoạch, giai đoạn từ 2011-2015, EVN dự kiến đưa vào 11.300 MW, khởi công thêm 14 dự án cho giai đoạn sau 2015 và mục tiêu đến năm 2020 sẽ cấp điện cho toàn bộ khu vực nông thôn.
Tuy nhiên để đạt được mục tiêu này thì EVN cũng kiến nghị với Bộ Công thương cần sớm phê duyệt việc tách các tổng công ty phát điện thành những đơn vị độc lập nhằm giảm bớt những gánh nặng về vốn và tập trung cho các dự án trọng điểm.
Thực tế cho thấy, trong 10 công trình mà Tập đoàn Than khoáng sản Việt Nam (TKV) làm chủ đầu tư thì hầu hết các dự án đều chậm so với tiến độ đề ra. Đại diện TKV cho biết, việc thu xếp tài chính cho các dự án điện, đặc biệt là các dự án có quy mô công suất lớn rất khó khăn, khó tiếp cận với các ngân hàng trong nước.
Bên cạnh đó, công tác giải phóng mặt bằng cũng nhiều bất cập, giá đất, thu hồi đất và bồi thường hỗ trợ tái định cư thường mất từ 1-2 năm, thậm chí dài hơn mới có thể tiến hành đầu tư được.
Đến một đơn vị hùng mạnh như Tập đoàn dầu khí Việt Nam (PVN) cũng bày tỏ, áp lực thu xếp vốn cho các dự án nhiệt điện của PVN là rất lớn, nhưng việc huy động vốn cũng không dễ dàng. Hơn nữa, giá điện được điều chỉnh chưa hợp lý đang là một nguyên nhân khiến nhà đầu tư phải "nản" khi rót vốn vào ngành điện.
Thứ trưởng Bộ Công thương Hoàng Quốc Vượng cũng nhấn mạnh, một trong những nút thắt của vấn đề nằm ở cơ chế giá điện. Năm 2010, EVN đã lỗ trên 8.000 tỷ đồng, nợ tiền mua điện của PVN và TKV gần 10.000 tỷ đồng. Riêng 6 tháng đầu năm 2011, EVN lại tiếp tục lỗ 3.500 tỷ đồng.
Việc tiến tới một khung giá điện mang tính thị trường của Việt Nam được các nhà đầu tư đánh giá rất cao và xem đây là giải pháp thu hút đầu tư ở quy hoạch điện VII và giải quyết tận gốc bài toán thiếu điện. Quyết định số 24/2011/QĐ-TTg về việc điều chỉnh giá bán điện theo cơ chế thị trường đã có hiệu lực từ ngày 1/6, Bộ Công Thương cũng đã có hướng dẫn về vấn đề này.
Tuy nhiên, lãnh đạo Bộ Công thương cũng thừa nhận, giải bài toán giá điện không thể không tính đến giá nhiên liệu và các mặt hàng khác. Bởi vì, suy cho cùng, điều chỉnh giá cũng để nhằm mục đích quan trọng nhất là đáp ứng đủ điện cho phát triển kinh tế-xã hội. Do đó, việc điều chỉnh giá điện vẫn đang được tính toán thận trọng để vừa giải quyết tình hình tài chính cho các đơn vị sản xuất điện nhưng vẫn đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô.
Đồng bộ nguồn và truyền tải điện
Một trong những yêu cầu quan trọng của quy hoạch điện VII là phát triển đường dây truyền tải điện đồng bộ với nguồn, có dự phòng cho phát triển lâu dài, từng bước ngầm hóa lưới điện tại các thành phố, thị xã.
Giai đoạn 2011-2015, EVN dự kiến sẽ đưa vào vận hành 44 công trình lưới truyền tải điện 500 kV và 212 công trình lưới điện truyền tải 220 kV. Chính phủ cũng yêu cầu, ngoài lưới điện áp 500 kV, sẽ tiếp tục nghiên cứu xây dựng cấp điện áp 750 kV, 1000 kV hoặc truyền tải bằng điện một chiều giai đoạn sau năm 2020. Việc này sẽ cần 1 lượng vốn không nhỏ.
Đây là bài toán rất nan giải vì hiện nay bức tranh tài chính của EVN đang rất khó khăn, chỉ riêng trả nợ đúng hạn cho các ngân hàng cũng không đơn giản.
Đó là chưa kể, lưới điện của Việt Nam đang quá tải và xuống cấp trầm trọng mà chưa tìm ra nguồn vốn để nâng cấp, sửa chữa và thay thế. Nếu thời gian tới nhiều nhà máy điện tiếp tục đi vào vận hành thì lưới điện càng căng thẳng.
Được giao trách nhiệm chính trong bảo đảm phát triển hệ thống truyền tải, giai đoạn 2011-2020, Tổng công ty Truyền tải điện quốc gia (NPT) sẽ phải đầu tư vào lưới điện 210,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 33,4% tổng vốn đầu tư; giai đoạn 2021 - 2030 là 494 nghìn tỷ đồng, chiếm 34,5%. Riêng nhu cầu đầu tư giai đoạn 2011-2015 của NPT đã cần tới 133.580 tỷ đồng, trong khi vốn khấu hao cơ bản chỉ có 26.380 tỷ đồng.
Hiện NPT đang đề nghị được áp dụng quy chế, chính sách đặc thù với các công trình điện cấp bách trong các năm 2010-2015. Theo đó, cho phép chủ đầu tư chỉ định cơ quan tư vấn; được quyết định các hình thức chọn thầu; được phê duyệt thủ tục đầu tư các dự án ODA.
Các dự án cấp bách được hưởng lãi suất ưu đãi từ các chính sách kích cầu của Nhà nước và các nguồn vốn ưu đãi khác; được vay vượt 85% vốn cho đầu tư các dự án và vay vượt 15% vốn tự có; được vay lại vốn ODA với các điều kiện vay như các tổ chức cho Chính phủ vay. Được bảo lãnh các khoản vay nước ngoài và miễn thẩm định dự án nếu đã được phê duyệt trong quy hoạch.
Ngoài ra, vấn đề nhiều người quan tâm là chính sách giải phóng mặt bằng đảm bảo tiến độ các dự án lưới điện trong quy hoạch điện VII, vì đây là vấn đề hóc búa nhất thời gian qua.
Với kỳ vọng tạo ra sự đột phá mới, quy hoạch điện VII đã gợi mở ra một số cơ chế, chính sách và từng công việc cụ thể trong giải phóng mặt bằng.
Tuy nhiên, với những dự án lưới điện kéo dài hàng chục, hàng trăm, thậm chí hàng nghìn kilômét, phải đền bù nhà cửa, ruộng vườn, hoa màu cho hàng nghìn, hàng vạn dân thì công việc này chưa bao giờ hết khó. Nhất là chính sách giá cả đền bù luôn thay đổi theo thời gian và không thống nhất giữa các địa phương khiến cho người nhận đền bù không an lòng...
Theo ông Nguyễn Đức Cường, Phó Tổng Giám đốc Tổng công ty truyền tải điện quốc gia thì công tác giải phóng mặt bằng gặp rất nhiều khó khăn và chưa có sự đồng thuận của các địa phương trong quy hoạch phát triển ngành điện, do vậy nhiều cột móng đã xây dựng xong nhưng chưa kéo dây được do chưa phê duyệt được phương án bồi thường hành lang tuyến.
"Ngay từ lúc quy hoạch phải gắn việc cấp đất cho các dự án thuộc trách nhiệm của chính quyền địa phương," ông Cương kiến nghị.
Đồng tình với ý kiến trên, Thứ trưởng Hoàng Quốc Vượng cho rằng, để làm tốt quy hoạch điện VII thì cần tập trung tháo gỡ hai vấn đề chính là vốn và giải phóng mặt bằng.
Theo phê duyệt và lộ trình điều chỉnh giá điện thì từ nay đến năm 2020, giá điện sẽ được điều chỉnh lên 8-9cent/kWh nhằm thu hút các nhà đầu tư vào ngành điện, ngoài ra các đầu tư khác thì cần phát huy tối đa sự tham gia của các nhà thầu trong nước và tư vấn thiết kế.
Bên cạnh đó, công tác giải phóng mặt bằng sẽ phải giao cho chính quyền địa phương nhằm đẩy nhanh tiến độ các dự án của ngành điện và việc gắn quy hoạch của địa phương với quy hoạch của ngành điện sẽ là điều kiện tiên quyết giúp các dự án điện thời gian tới đi vào đúng tiến độ.
Ngoài ra, việc đẩy nhanh thị trường phát điện cạnh tranh vào đầu năm 2012 sẽ giúp giảm chi phí phát điện một cách tối đa đồng thời tăng tính hấp dẫn của các nguồn điện mới.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Vốn giải ngân của các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài trong 2 tháng qua có dấu hiệu hồi phục trở lại sau mấy tháng liên tiếp bị giảm, Cục Đầu tư nước ngoài thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cho biết.
Đó là áp lực từ quốc tế, phải thay đổi để hàng hóa Việt Nam có thể gia nhập chuỗi giá trị toàn cầu. Rồi là áp lực trong nước. Điều này thì đã rất rõ: nền kinh tế đang gặp nhiều khó khăn do lạm phát cao, đầu tư công nhiều mà hiệu quả chỉ vừa phải, lãng phí. Hệ thống ngân hàng đang chứa đựng một số rủi ro. Các thị trường chứng khoán, bất động sản ảm đạm. Khu công nghiệp, khu kinh tế mở ra quá nhiều, mà thu hút quá ít doanh nghiệp.
Tâm lý kỳ vọng lạm phát trước việc tăng lương tối thiểu vùng khu vực doanh nghiệp là một trong những nhân tố gây sức ép tăng giá thị trường tháng 9/2011.
Bản dự thảo lần thứ ba báo cáo tình hình sản xuất kinh doanh của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước vừa được Đảng ủy khối doanh nghiệp Trung ương đưa ra thảo luận chiều ngày 8/9.
Trong đó, một số doanh nghiệp lớn đối mặt khoản lỗ hàng nghìn tỷ đồng trong năm nay như Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) dự kiến lỗ 11.669 tỷ đồng; Tổng công ty Xăng dầu (Petrolimex) năm 2011 ước lỗ 1.200 tỷ đồng; Tập đoàn công nghiệp tàu thủy Việt Nam (Vinashin) lỗ 3.092 tỷ đồng; Tổng công ty Hàng hải (Vinalines) lỗ 613 tỷ đồng.
Tháng 8/2011, số liệu thống kê cho thấy công nghiệp giữ “phong độ” cao; xuất khẩu, nhập siêu đều tốt; giải ngân vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tích cực hơn năm ngoái.... Những doanh nghiệp vẫn kêu khó khăn lâu nay hẳn phải nghĩ mình thuộc số ít.
Tại buổi giao ban trực tuyến công thác tháng 8 tổ chức sáng 5/9, tại Hà Nội, Bộ Công thương dự báo những tháng cuối năm sản xuất và xuất khẩu sẽ tiếp tục tăng trưởng nhưng để hoàn thành kế hoạch thì cần phải tháo gỡ nhiều vướng mắc, nhất là vốn và thị trường...
Do những hạn chế về cơ sở hạ tầng và sự gia tăng chóng mặt của các phương tiện cá nhân, vừa qua, Chính phủ đã yêu cầu Bộ Giao thông Vận tải chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành và UBND các tỉnh, thành phố xây dựng đề án hạn chế và lộ trình cấm mô tô, xe gắn máy tại các đô thị lớn.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Với sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 cùng tham vọng và thực lực của Trung Quốc cũng như những tuyên bố bất chấp dư luận quốc tế của giới lãnh đạo nước này trong thời gian qua đã đặt Việt Nam trước việc phải chấp nhận một thực tế là trong giai đoạn tới, đất nước sẽ phải phát triển kinh tế trong điều kiện không có có môi trường hoàn toàn thuận lợi do những lo ngại về bất ổn.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Các nước lớn đóng vai trò rất quan trọng trong việc dàn xếp các cuộc xung đột mang tính quốc tế và nhiều khi họ sử dụng các vấn đề của thiên hạ để phục vụ cho những tính toán của riêng mình
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
Sau gần 25 năm đổi mới, bộ mặt kinh tế, xã hội Việt Nam đã khác hẳn. So với 10 năm trước, đời sống của dân chúng nói chung hiện nay được cải thiện nhiều, vị trí của Việt Nam trên thế giới cũng tăng lên đáng kể. Rõ ràng ở đây có vấn đề hiệu suất phát triển, có khả năng bỏ lỡ các cơ hội mà nguyên nhân sâu xa nằm ở cơ chế, ở sự chậm hoàn thiện cơ chế thị trường, ở năng lực nắm bắt cơ hội, và việc thực thi các chính sách, vì các điều kiện về bối cảnh khu vực và cơ hội phát triển Việt Nam không bất lợi so với các nước lân cận.
Bàn cờ kinh tế VN bị chia thành rất nhiều mảnh nhỏ. Các mảnh này thường bị chi phối bởi các nhóm độc quyền và đặc quyền. Điểm yếu cơ bản nhất trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam là tăng trưởng chủ yếu nhờ vào việc bán tài nguyên và gia công trình độ thấp, nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà nước vốn kém hiệu quả làm chủ đạo.
Việt Nam tăng 18 bậc lên vị trí thứ 71 trong bảng chỉ số về môi trường thương mại toàn cầu năm 2010 vừa được WEF công bố. Trong tổng số 125 nền kinh tế được WEF xem xét năm nay Singapore và Hồng Công tiếp tục dẫn đầu thế giới về phương diện tạo điều kiện thuận lợi cho tăng cường trao đổi thương mại toàn cầu.
Hiện nay quy mô của các vùng kinh tế trọng điểm (VKTTĐ) đã mở rộng đến gấn 25% diện tích và chiếm khoảng 70% thu nhập kinh tế của cả nước. Một vấn đề đặt ra là: quan điểm ngày càng mở rộng quy mô diện tích của các VKTTĐ của Việt Nam có hợp lý hay không? Làm thế nào để các VKTTĐ phải thực sự là động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế của cả nước ,có một thế đứng vững chắc trong tương lai nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
Ngày 17-5, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) đã tổ chức hội thảo tham vấn cho dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 5 năm 2011-2015, với sự tham gia của đại diện các cơ quan quốc tế. Nội dung chủ yếu nêu lên bức tranh toàn cảnh về KT-XH, cùng những vấn đề liên quan khi nước ta bước vào giai đoạn "đệm" chuyển tiếp để cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020.
Bên cạnh những vấn đề quản lý đô thị, trung tâm hành chính quốc gia… thì bài toán kinh tế là băn khoăn lớn nhất khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về đồ án quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, sáng 11/5.
Kể từ khi khu kinh tế ven biển đầu tiên là Chu Lai được thành lập năm 2003, đến nay đã có 14 khu kinh tế biển được thành lập, gồm 2 khu ở đồng bằng sông Hồng, 10 khu ở vùng duyên hải miền Trung và 2 khu ở miền Nam. Theo Quy hoạch phát triển các KKT biển đến năm 2020 cả nước sẽ có 15 khu kinh tế biển với kinh phí đầu tư khoảng 162.000 tỷ đồng và tạo việc làm cho khoảng 500.000 ngàn người.
Tại bài viết mới nhất trên blog của mình, TS. Trần Công Hòa đã phân tích và đưa ra một số khuyến nghị về hoạch định chính sách và điều hành nền kinh tế 2010: tiếp tục giảm giá VND; cắt giảm chi tiêu công; tăng tính độc lập của NHNN; kiên quyết cho phá sản những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ; điều chỉnh chính sách thuế ở một số lĩnh vực theo phương thức lũy tiến; phát triển công nghiệp phụ trợ;...
Tăng trưởng luôn luôn là một cuộc trường chinh. Vì vậy, không thể chỉ vì tăng trưởng ngắn hạn mà hy sinh sự ổn định và bền vững trong dài hạn. Cổ nhân ngày xưa có câu “dục tốc bất đạt”, không những thế cái giá phải trả cho kinh tế bất ổn rất lớn, chỉ cần nhìn sang mấy nước xung quanh như Thái Lan, Indonesia hay Philippines là có thể thấy rất rõ điều này.
Cải cách cơ cấu là một đòi hỏi nghiệt ngã đối với tất cả các nước muốn tiến bước trên con đường đi đến phồn vinh. Thế nhưng, có nhiều nước không chủ động vượt qua đòi hỏi này khi tình thế kinh tế còn thuận lợi và thường bắt đầu nó quá muộn khi đất nước đã rơi vào khủng hoảng. Điều này lý giải tại sao nhiều nước có khởi đầu tốt nhưng rồi sa lầy trong cạm bẫy của mức thu nhập trung bình ...
Năm 2009, tăng trưởng GDP đạt 5,32%; lạm phát được kiềm chế dưới 7%; hệ số ICOR là 5, 16. Những con số này có thể cho cảm nhận kinh tế vĩ mô đang ở tình trạng khá ổn định. Tuy nhiên Tổng cục Thống kê cho rằng các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc, bất bình đẳng giầu nghèo tăng, chậm được khắc phục,...
Nền kinh tế của Việt Nam đã và đang ngày một trở nên phức tạp hơn, với các cơ chế, thị trường, tổ chức và lực lượng kinh tế mới ra đời trong suốt hơn hai thập niên đổi mới. Sự gấp gáp của cuộc đua tranh kinh tế được nhân lên bằng hành trình hội nhập, trong đó Việt Nam là thành viên mới của WTO.