Mỗi năm Việt Nam sản xuất hơn 40 triệu tấn lương thực.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang nghiên cứu đề xuất thành lập các tập đoàn lương thực, tập đoàn thủy sản để xây dựng những “đầu tàu” đủ mạnh trong điều phối từ sản xuất đến tiêu thụ những mặt hàng xuất khẩu đủ lực. Tuy nhiên, với số vốn của mỗi tổng công ty thuộc Bộ chỉ vài trăm tỷ đồng, liệu "khát vọng" tập đoàn có khả thi?
Theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, 100% các doanh nghiệp có vốn nhà nước phải được cổ phần hóa. Các trường hợp đến ngày 1/7/2010 chưa cổ phần hóa được thì phải chuyển thành công ty TNHH một thành viên và tiếp tục cổ phần hóa sau năm 2010.
Ông Nguyễn Phú Hùng, Phó vụ trưởng - Phó trưởng ban đổi mới và quản lý doanh nghiệp của Bộ cho biết, 15 tổng công ty thuộc Bộ đã hoàn thành việc sắp xếp lại trước ngày 30/6/2010.
Khó cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước
Theo ông Nguyễn Phú Hùng, trong số 16 tổng công ty thuộc Bộ, hiện đã hoàn thành cổ phần hóa đối với 2 tổng công ty; 12 tổng công ty đã chuyển thành công ty TNHH hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con; một tổng công ty đã được sáp nhập (Tổng công ty Muối được sáp nhập vào Tổng công ty Lương thực miền Bắc). Đến nay, chỉ còn Tổng công ty Dâu tằm tơ Việt Nam là đang chờ Chính phủ xem xét quyết định phương án.
Bộ cũng đã xây dựng đề án để tiến tới hợp nhất 3 tổng công ty thủy sản thành 1 tổng công ty thủy sản mới, rồi hướng tới mô hình tập đoàn. Trong số 15 tổng công ty đã hoàn thành sắp xếp, thì 2 tổng công ty đã làm lễ ra mắt, các tổng công ty còn lại đang tiếp tục gấp rút làm các thủ tục đăng ký sản xuất kinh doanh để ra mắt trong thời gian tới. Tuy nhiên, đây chỉ là bước tạm thời để kịp cho các doanh nghiệp hoạt động tuân theo Luật Doanh nghiệp, sau đó các tổng công ty sẽ phải tiếp tục tiến hành cổ phần hóa.
Mục tiêu quan trọng của việc đổi mới, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước là nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất - kinh doanh, xã hội hóa các nguồn vốn đầu tư để giảm gánh nặng cho Nhà nước. Song đến nay, nhiều doanh nghiệp đã và đang cổ phần hóa gặp không ít khó khăn, chủ yếu là do thiếu vốn, công nghệ lạc hậu và những bất cập từ cơ chế.
Sở dĩ việc cổ phần hóa doanh nghiệp nông nghiệp diễn ra chậm là do hầu hết các đơn vị có lượng vốn ít, công nghệ lạc hậu, trung bình mỗi doanh nghiệp chỉ có khoảng 20 tỷ đồng vốn, thậm chí có tới 15% số doanh nghiệp có vốn chưa đến 1 tỷ đồng. Số doanh nghiệp có nguồn vốn ít chủ yếu nằm ở các tổng công ty xây dựng, rau quả, chè....
Đối với các nông, lâm trường thì vướng mắc nhất chính là ở khâu định giá đất đai, việc tính giá trị tài sản cố định là đất canh tác theo giá thị trường là vô cùng khó. Với việc đẩy mạnh sắp xếp lại doanh nghiệp trong thời gian qua, các doanh nghiệp ngành nông nghiệp đã thực sự được đổi mới về chất. Tuy nhiên, hậu cổ phần hóa cũng sẽ có nhiều vấn đề nảy sinh cần phải giải quyết, như: làm thế nào để không bị tư nhân hóa, làm thế nào để lao động trong các doanh nghiệp nhà nước không bị thất nghiệp...
Mới chỉ là ý tưởng
Trong ngành nông nghiệp, hiện đã có duy nhất một tập đoàn là Tập đoàn Công nghiệp cao su Việt Nam (VRG). Qua hơn 3 năm hình thành, VRG từ số vốn nhà nước ban đầu với 10.000 tỷ đồng, đã huy động từ các thành phần kinh tế khác thêm được 9.000 tỷ đồng. Đến nay, sản phẩm của VRG đã chiếm lĩnh 60% thị trường cao su của cả nước, là đơn vị xuất khẩu cao su chủ lực của nước ta, và đã mở rộng địa bàn hoạt động sang Lào, Campuchia.
Ông Diệp Kỉnh Tần, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, kiêm Trưởng ban sắp xếp và đổi mới các doanh nghiệp nông nghiệp, cho biết, Bộ đang rất muốn thành lập 1-2 tập đoàn thuộc ngành lương thực. Nước ta là nước nông nghiệp, hàng năm sản xuất ra tới hơn 40 triệu tấn lương thực, và cũng đã dành ra tới 10 triệu tấn lúa hàng năm để xuất khẩu, còn lại 30 triệu tấn để tiêu thụ nội địa.
Nhưng nhiều ý kiến cho rằng, khi đã thành lập tập đoàn lương thực thì phải hội tụ đủ điều kiện để chi phối được quy trình sản xuất từ trồng trọt cho đến thu hoạch, sơ chế, đặc biệt là có sự hỗ trợ nông dân.
Ông Nguyễn Phú Hùng cũng chia sẻ: “Vấn đề thiết lập các tập đoàn lương thực, thủy sản cũng mới chỉ ở giai đoạn ý tưởng trao đổi tiến tới xây dựng đề án, phải một năm nữa mới trình lên Chính phủ. Các doanh nghiệp nhà nước vừa mới hoàn thành sắp xếp lại trong tiến trình cổ phần hóa, nếu thành lập tập đoàn ngay thì sẽ gây xáo động liên tục".
Bởi vậy, việc trước mắt là phải xây dựng các tổng công ty đủ mạnh đã rồi mới tính đến chuyện tiến lên tập đoàn được. Muốn tiến lên tập đoàn, trước hết phải có tiềm lực tài chính mạnh. Hiện tổng vốn của VRG là 18.988 tỷ đồng, nếu đem so với các tập đoàn thuộc ngành khác thì vốn của VRG là quá nhỏ, ông Hùng so sánh.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Đó là nhận định của các đại biểu tham gia hội thảo khoa học quốc tế về “Công nghệ vi mạch” do Đại học Quốc gia TPHCM tổ chức tại khách sạn Majestic trong hai ngày 17 và 18-6
Việt Nam có thể làm tốt hơn thế. Đó là khẳng định của các nhà tài trợ khi bàn về việc sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) cho mục tiêu phát triển của Việt Nam.
Xuất phát phần lớn từ kinh tế hộ gia đình, hợp tác xã, các DN vừa và nhỏ (DNV&N) đã trải qua một chặng đường chuyển mình đầy gian nan, thử thách với không ít thất bại nhưng cũng có nhiều thành công.
Sự phát triển vượt bậc của doanh nghiệp vừa và nhỏ (DN V và N) cả về số lượng và chất lượng trong những năm qua đã thể hiện sức mạnh tiềm tàng của khu vực DN này. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, sự phát triển này chưa thực sự bền vững bởi những khó khăn, hạn chế mang tính đặc trưng và lâu dài của khu vực DN V và N.
Tổ công tác chuyên trách cải cách TTHC của Chính phủ đề xuất nên quy định tỷ lệ sở hữu cổ phần, phần vốn góp của các cổ đông sáng lập, thành viên sáng lập Công ty chứng khoán là tổ chức tối thiểu 50% vốn điều lệ.
“Không có một công cụ đơn lẻ nào là hoàn hảo nên Việt Nam cần xây dựng bộ chỉ số dựa trên kinh nghiệm quốc tế và tình hình trong nước để có được hệ thống tiêu chí đánh giá và theo dõi tham nhũng phù hợp nhất”. Đó là quan điểm của bà Juanita Riano, giám đốc chương trình Công cụ đo lường tham nhũng toàn cầu của Tổ chức Minh bạch quốc tế.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Với sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 cùng tham vọng và thực lực của Trung Quốc cũng như những tuyên bố bất chấp dư luận quốc tế của giới lãnh đạo nước này trong thời gian qua đã đặt Việt Nam trước việc phải chấp nhận một thực tế là trong giai đoạn tới, đất nước sẽ phải phát triển kinh tế trong điều kiện không có có môi trường hoàn toàn thuận lợi do những lo ngại về bất ổn.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Các nước lớn đóng vai trò rất quan trọng trong việc dàn xếp các cuộc xung đột mang tính quốc tế và nhiều khi họ sử dụng các vấn đề của thiên hạ để phục vụ cho những tính toán của riêng mình
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
Sau gần 25 năm đổi mới, bộ mặt kinh tế, xã hội Việt Nam đã khác hẳn. So với 10 năm trước, đời sống của dân chúng nói chung hiện nay được cải thiện nhiều, vị trí của Việt Nam trên thế giới cũng tăng lên đáng kể. Rõ ràng ở đây có vấn đề hiệu suất phát triển, có khả năng bỏ lỡ các cơ hội mà nguyên nhân sâu xa nằm ở cơ chế, ở sự chậm hoàn thiện cơ chế thị trường, ở năng lực nắm bắt cơ hội, và việc thực thi các chính sách, vì các điều kiện về bối cảnh khu vực và cơ hội phát triển Việt Nam không bất lợi so với các nước lân cận.
Bàn cờ kinh tế VN bị chia thành rất nhiều mảnh nhỏ. Các mảnh này thường bị chi phối bởi các nhóm độc quyền và đặc quyền. Điểm yếu cơ bản nhất trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam là tăng trưởng chủ yếu nhờ vào việc bán tài nguyên và gia công trình độ thấp, nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà nước vốn kém hiệu quả làm chủ đạo.
Việt Nam tăng 18 bậc lên vị trí thứ 71 trong bảng chỉ số về môi trường thương mại toàn cầu năm 2010 vừa được WEF công bố. Trong tổng số 125 nền kinh tế được WEF xem xét năm nay Singapore và Hồng Công tiếp tục dẫn đầu thế giới về phương diện tạo điều kiện thuận lợi cho tăng cường trao đổi thương mại toàn cầu.
Hiện nay quy mô của các vùng kinh tế trọng điểm (VKTTĐ) đã mở rộng đến gấn 25% diện tích và chiếm khoảng 70% thu nhập kinh tế của cả nước. Một vấn đề đặt ra là: quan điểm ngày càng mở rộng quy mô diện tích của các VKTTĐ của Việt Nam có hợp lý hay không? Làm thế nào để các VKTTĐ phải thực sự là động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế của cả nước ,có một thế đứng vững chắc trong tương lai nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
Ngày 17-5, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) đã tổ chức hội thảo tham vấn cho dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 5 năm 2011-2015, với sự tham gia của đại diện các cơ quan quốc tế. Nội dung chủ yếu nêu lên bức tranh toàn cảnh về KT-XH, cùng những vấn đề liên quan khi nước ta bước vào giai đoạn "đệm" chuyển tiếp để cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020.
Bên cạnh những vấn đề quản lý đô thị, trung tâm hành chính quốc gia… thì bài toán kinh tế là băn khoăn lớn nhất khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về đồ án quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, sáng 11/5.
Kể từ khi khu kinh tế ven biển đầu tiên là Chu Lai được thành lập năm 2003, đến nay đã có 14 khu kinh tế biển được thành lập, gồm 2 khu ở đồng bằng sông Hồng, 10 khu ở vùng duyên hải miền Trung và 2 khu ở miền Nam. Theo Quy hoạch phát triển các KKT biển đến năm 2020 cả nước sẽ có 15 khu kinh tế biển với kinh phí đầu tư khoảng 162.000 tỷ đồng và tạo việc làm cho khoảng 500.000 ngàn người.
Tại bài viết mới nhất trên blog của mình, TS. Trần Công Hòa đã phân tích và đưa ra một số khuyến nghị về hoạch định chính sách và điều hành nền kinh tế 2010: tiếp tục giảm giá VND; cắt giảm chi tiêu công; tăng tính độc lập của NHNN; kiên quyết cho phá sản những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ; điều chỉnh chính sách thuế ở một số lĩnh vực theo phương thức lũy tiến; phát triển công nghiệp phụ trợ;...
Tăng trưởng luôn luôn là một cuộc trường chinh. Vì vậy, không thể chỉ vì tăng trưởng ngắn hạn mà hy sinh sự ổn định và bền vững trong dài hạn. Cổ nhân ngày xưa có câu “dục tốc bất đạt”, không những thế cái giá phải trả cho kinh tế bất ổn rất lớn, chỉ cần nhìn sang mấy nước xung quanh như Thái Lan, Indonesia hay Philippines là có thể thấy rất rõ điều này.
Cải cách cơ cấu là một đòi hỏi nghiệt ngã đối với tất cả các nước muốn tiến bước trên con đường đi đến phồn vinh. Thế nhưng, có nhiều nước không chủ động vượt qua đòi hỏi này khi tình thế kinh tế còn thuận lợi và thường bắt đầu nó quá muộn khi đất nước đã rơi vào khủng hoảng. Điều này lý giải tại sao nhiều nước có khởi đầu tốt nhưng rồi sa lầy trong cạm bẫy của mức thu nhập trung bình ...
Năm 2009, tăng trưởng GDP đạt 5,32%; lạm phát được kiềm chế dưới 7%; hệ số ICOR là 5, 16. Những con số này có thể cho cảm nhận kinh tế vĩ mô đang ở tình trạng khá ổn định. Tuy nhiên Tổng cục Thống kê cho rằng các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc, bất bình đẳng giầu nghèo tăng, chậm được khắc phục,...
Nền kinh tế của Việt Nam đã và đang ngày một trở nên phức tạp hơn, với các cơ chế, thị trường, tổ chức và lực lượng kinh tế mới ra đời trong suốt hơn hai thập niên đổi mới. Sự gấp gáp của cuộc đua tranh kinh tế được nhân lên bằng hành trình hội nhập, trong đó Việt Nam là thành viên mới của WTO.