Tin kinh tế, tài chính, đầu tư, chứng khoán,tiêu dùng

Việt-Mỹ trong thế cờ biển Đông

Trả lời hãng tin Blomberg trong một phỏng vấn năm ngoái, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh được dẫn lời: "Không ai có thể tưởng tượng được là quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam lại phát triển nhanh như thế này. Sau 16 năm bình thường hóa quan hệ, chúng ta đã tiến tới giai đoạn phát triển nó trên mọi lĩnh vực".

 

Hàm ý gì từ  tác động cộng hưởng kép?

Mỹ muốn gì ở Biển Đông? Và các nước ASEAN, mà cụ thể là Việt Nam có  thể hợp tác với siêu cường này như thế  nào để đảm bảo lợi ích của mình? Các  động thái gần đây cho thấy một bức tranh mới trong mối quan hệ hai bên đang dần dần xuất hiện với nhiều gam màu khác nhau. Từ mối quan hệ ban đầu chỉ tập trung vào việc tìm kiếm quân nhân Mỹ  mất tích trong chiến tranh Việt Nam, các dấu hiệu hợp tác gần đây khiến một số nhà quan sát  đã sử dụng cụm từ "mối quan hệ chiến lược" để hình dung về tương lai song phương giữa hai nước từng đối địch.

Trả lời hãng tin Blomberg trong một phỏng vấn năm ngoái, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh được dẫn lời: "Không ai có thể tưởng tượng được là quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam lại phát triển nhanh như thế này. Sau 16 năm bình thường hóa quan hệ, chúng ta đã tiến tới giai đoạn phát triển nó trên mọi lĩnh vực".

Cụm từ "trong mọi lĩnh vực" của tân ngoại trưởng không quá lời, khi cách đây không lâu một hiệp ước giữa hai nước được ký kết tạo cho giới quan sát nhiều chú ý. Đó là hợp tác Quân y Việt - Mỹ. Theo báo chí đưa tin, thỏa thuận bao gồm các hoạt động trao đổi chuyên môn, hội thảo cũng như hợp tác nghiên cứu y học và là một hợp tác đầu tiên trong đó là quân sự - quốc phòng. Liệu y học có là "ngôn ngữ chung"  giúp nối liền những khoảng cách - như lời của quan chức Hải quân Mỹ ví von - thì chưa ai có  thể khẳng định.

Nhưng những bước đi "mềm"  trong lĩnh vực còn được xem là nhiều nhạy cảm này có lẽ đã khởi động trước đó một thời gian qua lời cựu đại sứ Lê Công Phụng: "Việt Nam và Mỹ đã nhất trí thiết lập cơ chế đối thoại chiến lược về an ninh - quốc phòng và cho đến nay đã tiến hành được ba vòng đối thoại. Việt Nam là một trong số rất  ít các nước ở Đông Nam Á có cơ chế  này với Mỹ".

Bối cảnh nào thúc đẩy mối quan hệ tiến nhanh như vậy, và những viên gạch nào cần tiếp tục  được đặt nền? Vượt trên các tên gọi của giới nghiên cứu hay các nhà ngoại giao, một góc nhìn trực diện vào bản chất thật sự của quan hệ Việt - Mỹ đang cần đưa lên bàn cân đánh giá  làm tiền đề cho quá trình hoạch định chính sách. Trong đó, tác động kép từ sự thay đổi cục diện khu vực đóng vai trò tiên yếu. Một là  quá trình toàn cầu hóa. Hai là sự trỗi dậy của Trung Quốc như một cường quốc kinh tế - quân sự.

Tác động cộng hưởng kép

Dẫu đa phương hay song phương, dẫu quan hệ kinh tế hay ngoại giao, dẫu trong hoàn cảnh thuận hòa hay đang tồn tại một số bất đồng trước mắt, có hai yếu tố cần được xem xét, đó là toàn cầu hóa kinh tế và trỗi dậy của Trung Quốc trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Một mặt, sự lựa chọn của Việt Nam tham gia thị trường toàn cầu đã làm thay đổi định hướng trong các quyết định về chiến lược ngoại giao.

Việc gia nhập tổ chức Thương mại Thế  giới (WTO) năm 2007 là một bước thứ hai trong quá  trình cải cách của Việt Nam, đánh dấu phương hướng đa phương hóa, đa dạng hóa trong các lựa chọn về  chính sách đối ngoại. Quá trình xích lại gần với cộng đồng chung thế giới nên được đánh giá trong bối cảnh ưu tiên về phát triển và  hiện đại hóa đất nước được đặt lên hàng đầu. Toàn cầu hóa trong mối quan hệ Việt - Mỹ, vì thế, kiến tạo một hình dung về thế giới ngày càng liên kết mà trong đó chia sẻ lợi  ích sẽ là yếu tố chủ đạo.

Tàu sân bay USS George Washington của Mỹ thường xuyên xuất hiện ở các vùng biển châu Á trong những năm qua. Ảnh: US Navy

Bên cạnh đó, sự trỗi dậy của Trung Quốc xoay quanh cuộc tranh luận rằng liệu cán cân quyền lực toàn cầu có đang chuyển đổi hay không. Với Trung Quốc, một ngôi sao đang lên, đồng nghĩa rằng đây sẽ là đầu máy tăng trưởng và thịnh vượng của nền kinh tế khu vực. Gắn kết vào nền kinh tế  có 1,34 tỉ dân này là xu thế tất yếu, để tận dụng nguồn tài nguyên, giá thành nhân công, thị trường nội địa khổng lồ và xung lực tăng trưởng dồi dào.

Sự trỗi dậy của Trung Quốc như một cường quốc kinh tế - quân sự làm thay đổi tương đối cán cân quyền lực của các nước trong vùng Thái Bình Dương. Công bố về ngân sách quốc phòng từ Bắc Kinh trong năm 2011, theo phát ngôn viên chính phủ nước này, đã đạt 601 tỉ nhân dân tệ (91,5 tỉ USD), tăng 12,7%. Kế hoạch hiện đại hóa hạm đội tàu ngầm đạt bước tiến tương đối trong vòng bảy năm trở lại đây: trong năm 2002, chỉ có bảy trong 69 chiếc tàu ngầm đáp ứng tiêu chuẩn hiện đại, năm 2009 tỷ lệ này tăng lên 31 trên 65 chiếc, trong đó bao gồm 12 tàu ngầm hạng Kilo.

Một xu hướng tương tự như thế cũng có thể quan sát từ kế hoạch phát triển kho vũ khí hạt nhân với việc thiết lập các loại tên lửa xuyên lục địa Dong Feng-31 và Dong Feng-31A với phạm vi tấn công khoảng từ 7.200km đến 11.200km. Song hành với chuyển động về năng lực quốc phòng, nước này đã có nhiều hành động xác quyết chủ quyền của mình tại vùng tranh chấp ở Biển Đông mà gần đây nhất qua hai vụ cắt cáp vụ tàu Bình Minh và tàu Viking trong vùng biển thuộc đặc quyền kinh tế của Việt Nam.

Biển Đông: Thế  của nước yếu, thế của nước mạnh

Với Mỹ, điểm mà các nhà  phân tích chiến lược đặt câu hỏi là sự trỗi dậy của Trung Quốc (i) sẽ làm thay đổi cấu trúc  "đồng minh" của Mỹ tại châu Á - Thái Bình Dương như thế nào, và cũng không kém phần quan trọng (ii) là sẽ ảnh hưởng đến lựa chọn chiến lược của các nước nhỏ hay các nước vẫn chưa định hình vị trí của mình trong bàn cờ khu vực. Trong bài toán biển Đông, trước những hành động mang tính thách thức từ phía Trung Quốc qua hành xử của tàu hải giám, phân chia vùng lãnh hải hay tự diễn dịch UNCLOS phục vụ tùy theo lợi ích, nước Mỹ dường như đứng trước ngã ba đường. Tín hiệu xuất phát gần đây từ Washington cho thấy Chính phủ Mỹ có nhiều tiếng nói khẳng định lợi ích và sự cam kết hiện diện lâu dài tại châu Á.

Tại Diễn đàn An ninh khu vực châu Á lần thứ 10 (Đối thoại Shangri-La 2011) Bộ trưởng Quốc phòng Robert Gates cá cược 100 USD đảm bảo rằng Hoa Kỳ sẽ tiếp tục hiện diện mạnh mẽ hơn trong vòng 5-10 năm tới. Hội nghị Diễn đàn ASEAN (ARF 18) ở Bali trước đấy một tuần, Ngoại trưởng Mỹ cũng đã kêu gọi các bên giải quyết vấn đề bằng pháp lý và thông báo rằng, Mỹ sẽ đóng vai trò thúc đẩy quá trình này, khuyến cáo tất cả các quốc gia liên quan cần phân định chủ quyền theo Luật Biển quốc tế 1982.

Mặt khác, Mỹ cũng đang đứng trước bài toán ngân sách và khó khăn tài chính, dẫn đến xu hướng đòi hỏi chính phủ xét lại các vấn đề quốc nội nên đặt làm ưu tiên hàng đầu. Cuộc tranh luận về nợ công giữa lưỡng đảng tại Quốc hội Mỹ chấm dứt nhưng chưa kết thúc, khiến cho bất kỳ cam kết hiện diện quân sự, hay giữa đảm nhiệm vai trò mạnh mẽ hơn tại trong hồ sơ tranh chấp Biển Đông không chỉ là bài toán địa chiến lược, mà còn cần được phân tích dưới góc nhìn kinh tế. "Biển Đông hay là tôi" (hiểu như người dân đóng thuế Mỹ), quan điểm của một phân tích gia trên tạp chí Foreign Policy tháng 6 năm ngoái có thể xem như đại diện một trường phái trong công luận Mỹ đặt dấu chấm hỏi về phí tổn nước Mỹ phải gánh chịu và nhu cầu đứng mũi chịu sào đảm bảo "ô dù an ninh chung" cho khu vực Thái Bình Dương.

Còn với các nước nhỏ trong khối ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng, thái độ của nước mạnh Trung Quốc lúc mềm mỏng, lúc cứng rắn với từng quốc gia, diễn ra trong từng diễn đàn, từng tình huống từ Bắc Kinh tạo nên những tiên đoán khác nhau từ các nước liên quan. Hoặc như chính sách của Bắc Kinh trong hồ sơ sông Mekong thời gian vừa qua cũng gây lo ngại cho những nước ở hạ nguồn. Siêu cường Mỹ vẫn giữ vai trò số một, nhưng phần nào đang suy giảm, và không trực tiếp đụng độ lợi ích từ việc tranh chấp, vì vậy giữ nguyên hiện trạng là lựa chọn khả dĩ. Các nước nhỏ ASEAN tổn thương trực tiếp từ tiếp cận sức mạnh, vì thế cần luật hơn cần nắm đấm.

Trái banh bây giờ lăn về phía cường quốc đang lên Trung Quốc thông qua một giả định và hai câu hỏi. Giả định rằng nếu Bắc Kinh tự tin vào sức mạnh của mình sẽ vượt Nhật, vượt Mỹ, thì một trật tự mới (giống như những gì xảy ra trong lịch sử) cần được phải sắp xếp lại. Trung Quốc sẽ đi con đường nào, lựa chọn sức mạnh thủy lôi, tàu chiến, xe tăng để xây mộng bá quyền hay lựa chọn thể chế chấp nhận tự giới hạn mình vào luật, chuẩn tắc giữ vai trò "vương quyền" lãnh đạo dẫn dắt? Và ở cái thế dự đoán giữa những kịch bản khó tiên đoán trước, quan hệ Việt - Mỹ cần dựa vào điểm tựa nào để hoạch định tương lai?
----------------------
Tác giả: Nguyễn Chính Tâm // Nguồn: Tuần Việt Nam

Đọc thêm>>

Việt - Mỹ: Đi tìm điểm tựa của tương lai

 


Trong bài toán biển Đông, Việt-Mỹ chia sẻ với nhau ba góc nhìn.

Lựa chọn liên minh

Quan hệ Việt - Mỹ đang trong giai đoạn mà yếu tố lợi ích đang đóng vai trò tiên quyết. Mỹ là một đối tác quan trọng với Việt Nam bởi những tích cực mà hợp tác kinh tế, thương mại, giáo dục, chuyển giao công nghệ  do Mỹ đem lại. Ngược lại, Việt Nam càng ngày càng trở nên quan trọng hơn với Mỹ, xét trên bàn cờ  địa chính trị chung của khu vực châu Á. Riêng với chính quyền Obama, mở rộng hợp tác với các quốc gia Đông Nam Á, đặc biệt là Việt Nam, còn thể  hiện thuyết sách ngoại giao mới tập trung vào ba ưu tiên chuyển đổi, trong đó ưu tiên chuyển đổi địa dư, từ châu Âu sang châu Á với sự  trở lại của nước Mỹ tại khu vực Thái Bình Dương, nằm ở vị trí đầu tiên.

Trong bài toán biển Đông, Việt-Mỹ  chia sẽ với nhau ba góc nhìn. Thứ nhất, các xung đột trong khu vực nên giải quyết thông qua biện pháp ngoại giao và hòa bình, tránh đụng chạm xung đột vũ  trang hay lạm dụng sự bất đối xứng trong tương quan quân sự. Điều này đã được các quan chức cấp cao của hai bên khẳng định nhiều lần trong thời gian gần đây tại nhiều diễn đàn đa phương. Điểm thứ hai thể hiện qua việc hai nước đang cùng tìm một vị trí pháp lý chung trong việc quản lý hàng hải. Bản đồ đường lưỡi bò 9 điểm đứt khúc từ phía Bắc Kinh (nếu  được chấp nhận) đồng nghĩa với việc xây dựng một hàng rào giới hạn quyền tự do lưu thông hàng hải của Mỹ. Với Việt Nam là dấu chấm hỏi cho việc bảo vệ chủ quyền tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Xa hơn, là lựa chọn chiến lược, bởi vì „luật chơi" trong một trật tự  với một siêu cường không phải muốn chỉnh sửa thế  nào cũng được. Nhất là qua cách thức đề cao nhiều sức mạnh về "cơ bắp".

Cùng lợi ích thì thuận chiều: liệu thời gian đã chính muồi để bàn về sự  hình thành cùa mối quan hệ -thậm chí liên minh chiến lược Việt-Mỹ hay không? Trả lời phỏng vấn báo chí, thứ trưởng bộ Quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh đã nhiều lần khẳng định chính sách "ba không" của Việt Nam: "không tham gia các liên minh quân sự, không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, không cho bất cứ nước nào  đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để chống nước kia". Trả  lời nhậm chức vào tuần trước tân đại sức Mỹ  tại Việt Nam David Bruce Shear cũng để mở khả năng là nhà cung cấp thiết bị quân sự cho Việt Nam, đặc biệt là những vũ khí mang tính sát thương. Những động thái này cho thấy một "định chế cứng" ở dạng liên minh quân sự, theo đó, các nước ràng buộc với nhau bằng một cam kết bảo vệ an ninh lẫn nhau (có thể chống lại một đe doạ đến từ phe thứ ba) hay cung cấp vũ khí để hổ trợ chưa đạt được một đồng thuận đủ mạnh từ hai phía. Một "định chế mềm", tuy vậy, vẫn có thể khả thi, thể hiện qua ba kênh chính.

Chủ tịch nước Trương Tấn Sang cùng Tổng thống Mỹ Barack Obama và
các nhà lãnh đạo TPP tại APEC 19

Ba điểm tựa của thì  hiện tại

Đầu tiên là qua kênh kinh tế. Một Việt Nam phát triển mạnh mẽ hơn có nằm trong lợi ích của Mỹ hay không? Các nhà chiến lược theo trường phái duy thực sẽ trả lời có, vì dưới góc nhìn của họ không có phương thức nào tốt hơn để kiềm chế sự trỗi dậy của một nước đang lên bằng cách thúc đẩy sức mạnh của các nước láng giềng khác trong vùng. Cân bằng bên ngòai (offshore balancing) mang ý nghĩa tạo ra một khung bó buộc hành động của đối thủ dựa trên trọng lực của các nước xung quanh, mà không cần tham gia đối đầu trực tiếp. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, hưởng lợi trực tiếp của lựa chọn này trên hết là kinh tế. Kế hoạch Marshall tại châu Âu hay hổ trợ tái thiết Nhật Bản những năm sau thế chiến II cùng theo đuổi kịch bản tưong tự. Thặng dư trong thương mại, chuyển giao nhanh công nghệ, tăng tốc quá trình phát triển, để mạnh và để trở thành một lực lượng đóng vai trò chiến lược. Việc Vn liên tục nhập siêu với Mỹ trong những năm gần đây thể hiện xu thế đó. "Hiệp định Thương mại tự do xuyên Thái Bình Dương (Trans - Pacific Partnership Trade Agreement - TPP)" hiện đàm phán tới vòng thứ sáu, cũng có thể là một lực đẩy mới. Sáng kiến thương mại tự do được Mỹ khởi xướng gần đây tiếp tục sẽ gắn Việt Nam vào dòng thác thương mại đa phương toàn cầu, thiết lập một liên minh ngoại thương mà tầm hoạt động của nó là xuyên hai châu lục. Xét về mặt địa chính trị, ý nghĩa thứ hai có thể vượt qua những con số thông kế, không chỉ là một kế hoạch tự do thương mại, mà còn là "một dự án chính trị" nhằm thiết chế hoá một môi trường khu vực ổn định.

Kênh thứ hai là ngọai giao. Lãnh vực dường như nhạy cảm hơn, vì gắn liền đến nhiều yếu tố khách quan khác. Năm 2010, trước động thái có vẻ „vượt rào" từ phía Bắc Kinh, các nước Asean mở  cờ trong bụng tại hội nghị An ninh khu vực vùng ARF, khi Ngoại Trưởng Hillary Clinton khẳng định "Hoa Kỳ có lợi ích quốc gia của mình đối với vấn đề tự do hải hành, tự do tiếp cận các các vùng biển chung của Châu Á cũng như tôn trọng luật lệ quốc tế về biển Ðông". Năm 2011, không khí bớt căng thẳng hơn, như vẫn theo chiều hướng cũ, khi Mỹ và Philippines nêu vấn đề cần đưa những căng thẳng hiện tại xung quanh vấn đề tranh chấp ở Biển Đông vào bàn đàm luận tại ARF. Mức độ „liên minh" giữa Mỹ và Asean có thể tiếp tục gắn kết hơn trên bình diện hợp tác đa phương, nếu vị trí của Washington được tái khẳng định trong lộ trình hướng tới đồng chung Đông Á" (East Asian Community - EAC). Cho đến nay nước Mỹ (cùng với Nga) còn bị giới hạn với tư cách là quan sát viên. Đây là một diễn đàn quan trọng, mà thông qua đó - nếu được chấp thuận bằng lá phiếu của Asean- sẽ „định chế" vai trò và trách nhiệm của Mỹ vào các hồ sơ an ninh chung của toàn vùng.

Nước yếu và nước mạnh bất tương quan về lực, vì thế không tương đồng với nhau về cách thức giải quyết giữa sức mạnh và  thể chế. Nước mạnh dùng luật để xây dựng trật tự có lợi, ngược lại phần nào chấp nhận hạn chế hành vi của mình trong các quy phạm của pháp lý - một mặt để đề phòng khi sức mạnh mình bị suy giảm, một mặt hạn chế các phí tổn "hành động" nếu trong mọi trường hợp đều phải tiến hành giải pháp quân sự. Nước yếu chấp nhận luật pháp, ngược lại, theo đuổi bốn mục đích. Thứ nhất là thể chế tạo dựng diễn đàn để bày tỏ quan điểm. Thứ hai gắn kết tính chính đáng cho các hành xử của mình nếu nước lớn đơn phương hủy bỏ luật chơi. Thứ ba, tạo cơ sở tiên đoán (hoặc phần nào) hạn chế khung hành động của nước mạnh hơn. Cuối cùng, định chế không phải là phương thức thần kỳ để giải quyết tất cả vấn đề, nhưng với nước nhỏ đó là một con đường tối thiểu để đảm bảo rằng các vấn đề đang còn mâu thuẫn được giải quyết pháp chế và chuẩn tắc, chứ không phải thế yếu thông qua tương quan máy bay, tàu chiến. Phân tích thế cờ tại Biển Đông chỉ ra điểm mấu chốt không chỉ đơn thuần là mối quan hệ giữa nước mạnh và nước yếu, nước lớn và nước nhỏ, mà được định hình bởi nhiều bên, phân tầng theo nhiều góc độ. Mỹ và Vn gặp nhau ở điểm là hai bên đều đang trong thế cần xài luật để tìm hướng giải quyết. Hình thành một liên minh „pháp lý" là điểm tiệm cận gần nhất của góc nhìn này, trong đó hai việc cần nâng làm ưu tiên: (i) thống nhất một số điểm còn tranh cãi trong Công ước LHQ về Luật biển năm 1982 (UNCLOS) về khu vực đặc quyền kinh tế và (ii) kêu gọi Mỹ đứng sau hậu thuẫn tiến trình đi đến một hiệp ước mang tính ràng buộc pháp lý hơn tại biển Đông giữa các đối tác liên quan.

"Hãy cho tôi một điểm tựa, tôi sẽ nhấc bổng quả đất lên", câu nói đã trở thành bất hữu của Archimedes. Nay với ba điểm tựa tiềm năng trong quan hệ Việt-Mỹ chúng ta sẽ "nhấc bổng" được những gì? Bài toán sắp tới chắc chắn sẽ nằm ở việc xây dựng những điểm tựa này tới đâu thông qua quá trình xúc tiến các định chế hoá. Một thách thức vừa của cả chính phủ, vừa của nhân dân hai quốc gia để đưa quan hệ Việt - Mỹ lên một tầm cao mới.
-----------

 

Tác giả: Nguyễn Chính Tâm // Nguồn: Tuần Việt Nam
 

  • Vốn FDI gây ấn tượng tuần cuối tháng 4
  • Từ việc tăng lương nghĩ đến bài toán cung – cầu
  • Bộ Chính trị đặt mục tiêu kiềm chế lạm phát ở mức 8 - 9%
  • Doanh nghiệp Nhà nước: Của ai, do ai và vì ai?
  • Tái cơ cấu: E ngại với 'tuần tự tiệm tiến'
  • Nông dân phá sản: Kêu chẳng thấu vì không biết PR
  • Ôtô và ATM... Thời của phí
  • Tái cơ cấu kinh tế: Chưa đào tận gốc vấn đề
 tinkinhte.com
 tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com

  • Giáo sư Trần Văn Thọ: Một tiếp cận khác về chiến lược phát triển 2011-2020
  • Tái cấu trúc nền kinh tế: Đơn đã kê, bệnh nhân có chịu uống thuốc?
  • Thế giới nhìn nhận, đánh giá về triển vọng môi trường kinh doanh của Việt Nam
  • Quan điểm chiến lược phát triển vùng kinh tế trọng điểm Việt Nam đến 2020
  • Phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2015: Tập trung huy động vốn, chuyển đổi cơ cấu kinh tế
  • Quy hoạch chung Thủ đô: 90 tỷ USD cho hạ tầng có khả thi?
  • Phát triển kinh tế biển đảo Việt Nam: Thực trạng và triển vọng
  • Ts.Trần Công Hòa: Kinh tế Việt Nam 2010 - Một số khuyến nghị
  • Nóng hầm hập: Nhập siêu - Bội chi ngân sách - Chính sách tiền tệ
  • Bàn về cải cách cơ cấu và tái cấu trúc nền kinh tế
  • Việt Nam 2009: Các chỉ số kinh tế và bốn hạn chế từ góc nhìn thống kê
  • Kinh tế Việt Nam 2009 và một vài suy nghĩ về nhận thức luận chuyển đổi