![]() Ông Jan Jung-Min Sunoo thuộc Cơ quan Hòa giải Liên bang Hoa Kỳ |
“Tọa đàm hòa giải và mô hình cơ quan hòa giải của Hoa Kỳ” do VCCI phối hợp với Dự án SIIR vừa được diễn ra tại Hà Nội. PV đã có cuộc phỏng vấn ông Jan Jung-Min Sunoo thuộc Cơ quan Hòa giải Liên bang Hoa Kỳ xung quanh mô hình này.
- Ông có thể giới thiệu về mô hình cơ quan hòa giải Hoa Kỳ?
Được thành lập từ năm 1946, cơ quan Hòa giải Liên bang (FMCS) dưới sự điều hành của Văn phòng Tổng thống Hoa Kỳ, đã thực hiện nhiệm vụ giải quyết tranh chấp giữa công đoàn và giới chủ trên toàn nước Mỹ. Về cơ bản, cơ quan “đa năng” với 230 cán bộ đã đóng vai trò “độc nhất vô nhị” trong lĩnh vực này và được coi là “người mang lại hòa bình” cho vấn đề quan hệ lao động tại Hoa Kỳ.
Cần phải nói rõ FMCS không phải là cơ quan xây dựng hay thực thi pháp luật, vì vậy hòa giải viên liên bang không có vai trò thực thi luật lao động, thanh tra các vấn đề lao động hay hướng dẫn thực hiện luật lao động như các cán bộ Sở LDTBXH của Việt Nam. Thay vào đó, họ được coi là các cán bộ trung gian, làm việc với công đoàn và doanh nghiệp chỉ khi được các bên yêu cầu.
Những hòa giải viên chuyên trách của FMCS vốn là các chuyên gia lao động có kinh nghiệm. Kinh nghiệm thực tế về quan hệ lao động là tiêu chí quan trọng nhất đối với một hòa giải viên. Vì vậy hầu hết các hòa giải viên liên bang đều đã ở độ tuổi chín về nghề và thường thì FMCS không phải là nơi làm việc đầu tiên của họ.
- Những thành công của mô hình cơ quan hòa giải Hoa Kỳ trong thời gian qua? Yếu tố nào làm nên sự thành công đó, thưa ông?
Trong thời gian qua FMCS đã hòa giải 31% tổng số vụ, tỷ lệ giải quyết thành công 86%. Theo thống kê, trong năm 2007, việc FMCS làm hòa giải trong vụ tranh chấp CBM đã tiết kiệm được 2,3 tỷ đô la cho người lao động và các doanh nghiệp Mỹ bằng cách rút ngắn thời gian tiến hành ngừng việc tập thể và ngăn chặn được khoảng 299 vụ ngừng việc, rút ngắn thời gian ngừng việc trong 69 trường hợp. Bên cạnh đó FMCS còn giảm số giờ mất việc của người lao động xuống còn 47,5 triệu giờ.
Để có sự thành công trên là do tại Hoa Kỳ hệ thống quan hệ lao động đã phát triển ở mức cao (gần 200 năm). Bên cạnh đó, luật pháp và các quy định về quan hệ lao động đều không khuyến khích đình công (cả hợp pháp lẫn bất hợp pháp); Miễn phí dịch vụ hòa giải (Thuế liên bang). Hơn thế nữa, năng lực của hòa giải viên liên bang và cơ chế tiếp cận hòa giải viên liên bang cũng ngày càng được nâng cao với cơ chế chuyên trách và cách làm việc chuyên nghiệp. Nơi làm việc của hòa giải viên được bố trí hợp lý và chặt chẽ với nơi làm việc, dễ dàng tiếp cận hòa giải viên bằng một cuộc điện thoại cũng là một trong những nguyên nhân góp phần tạo nên thành công của mô hình cơ quan hòa giải Hoa Kỳ…
- Theo ông thì Việt Nam có thể ứng dụng tốt mô hình này không? Nếu muốn ứng dụng tốt thì Việt Nam cần phải thực hiện những việc gì?
Việt Nam có thể xem xét để ứng dụng tốt mô hình này bằng việc công đoàn cấp trên hỗ trợ trực tiếp cho công đoàn cơ sở. Người lao động tại các nhà máy sẽ cảm thấy tự tin và sẵn sàng thực hiện thỏa ước khi biết rằng công đoàn cấp trên rất dễ tiếp cận và sẽ tới doanh nghiệp để hỗ trợ người lao động và cán bộ công đoàn cơ sở nếu có tranh chấp. Tại Việt Nam, các cán bộ công đoàn huyện và tỉnh có thể nâng cao hình ảnh của công đoàn nếu họ cũng tới hỗ trợ công đoàn cơ sở thường xuyên để giúp giải quyết các vấn đề. Trong các hoạt động đó, mục đích của công đoàn cấp trên là phải đào tạo công đoàn cơ sở để người lao động coi công đoàn là hy vọng tốt nhất tại nơi làm việc.
Một lỗ hổng lớn hiện nay tại Việt Nam là không có một cơ quan nào đứng ra giải quyết các tranh chấp. Do đó nhiều cơ quan như Sở LĐTBXH, Tổng LĐLĐVN, Trung tâm tư vấn QHLĐ chính là những nguồn lực cần được khai thác và cần xây dựng một chiến lược QHLĐ. Một dấu hiệu tích cực gần đây là sự ra đời của Trung tâm Khuyến trợ QHLĐ, tuy nhiên cần đánh giá lại vai trò của những cơ quan này và điều phối lại nhằm đạt được hiệu quả cao nhất.
Ngoài ra cần xây dựng đội ngũ hòa giải viên từ hệ thống giám sát TƯTT của Hoa Kỳ (TƯTT là văn bản thỏa thuận giữa tập thể lao động và người sử dụng lao động về các điều kiện lao động và sử dụng lao động, quyền lợi và nghĩa vụ của hai bên trong quan hệ lao động). Hội đồng hòa giải doanh nghiệp hiện chưa được sử dụng nhiều do người lao động thấy rằng tổ chức này quá thiên vị người sử dụng lao động tại các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp FDI. Do đó, cần có một hệ thống trung gian bao gồm các hòa giải viên độc lập nhằm hỗ trợ các bên giải quyết tranh chấp.
Gần đây chức năng hòa giải, đào tạo, giáo dục và tuyên truyền được thực hiện một cách ngẫu nhiên bởi nhiều cơ quan khác nhau như VCCI, Sở LĐTBXH, TLĐLĐVN, Liên minh hợp tác xã Việt Nam,…Do vậy, các cơ quan trên cần phải có sự phối hợp tốt hơn hoặc cần có một cơ quan có đầy đủ các chức năng để giải quyết vấn đề QHLĐ một cách hiệu quả nhất.
- Xin cảm ơn ông!
(Theo Hồ Hường // Diễn đàn doanh nghiệp)
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Chuyển nhượng, cho thuê hoặc hợp tác phát triển nội dung trên các tên miền:
Quý vị quan tâm xin liên hệ: tieulong@6vnn.com