Tin kinh tế, tài chính, đầu tư, chứng khoán,tiêu dùng

Gia nhập WTO tạo sự hợp tác toàn diện giữa Việt Nam với các quốc gia

Ông Ngô Quang Xuân. Ảnh: Nguồn internet
Là một trong những người tham gia đàm phán việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Phó chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội Ngô Quang Xuân khẳng định, sau 3 năm gia nhập WTO, vị thế của Việt Nam đã được nâng lên một tầm cao mới.
 
Dưới góc nhìn của một nhà ngoại giao, theo ông, sau 3 năm gia nhập WTO, cái được lớn nhất của Việt Nam là gì?

Vị thế của nước ta đã được nâng lên một tầm cao mới. Đây không phải là đánh giá cảm tính của cá nhân tôi, mà là đánh giá chung của lãnh đạo nhiều nước trên thế giới và các tổ chức quốc tế.

Lãnh đạo chính phủ, quốc hội các nước trên thế giới và lãnh đạo các tổ chức quốc tế nhận định, việc Việt Nam gia nhập WTO thực sự đã mở ra trang sử mới trong việc nâng cao mối quan hệ giữa Việt Nam và các nước, các tổ chức quốc tế, không chỉ trong hợp tác song phương, đa phương về kinh tế, thương mại, đầu tư, mà còn trên nhiều lĩnh vực khác, như chính trị, văn hoá, ngoại giao, đào tạo... Theo tôi, sự hợp tác toàn diện với các nước và các tổ chức quốc tế có ý nghĩa rất lớn đối với sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.

Riêng trong lĩnh vực kinh tế, Việt Nam đã thu được kết quả gì nổi bật sau 3 năm gia nhập WTO, thưa ông?

Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt được kết quả rõ nét nhất. Năm 2007, năm đầu tiên gia nhập WTO, Việt Nam đã thu hút hơn 20,3 tỷ USD vốn FDI, vượt mục tiêu đặt ra ban đầu 6 - 7 tỷ USD. Năm 2008, vốn FDI đăng ký vượt ngưỡng 60 tỷ USD - mức cao kỷ lục. Năm 2009, kinh tế thế giới rơi vào khủng hoảng, nguồn vốn FDI trên thế giới giảm mạnh, nhưng Việt Nam vẫn thu hút được 21,48 tỷ USD - một con số ấn tượng so với kết quả thu hút FDI của nhiều nước trên thế giới. Còn trong 5 tháng đầu năm nay, khi nền kinh tế thế giới bước ra khỏi khủng hoảng, FDI vào Việt Nam cũng đã nhanh chóng phục hồi. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong 5 tháng đầu năm, cả nước thu hút được 360 dự án, với tổng vốn cam kết đầu tư trên 7,1 tỷ USD, tăng 40% so với cùng kỳ 2009.

Tuy nhiên, nhiều chuyên gia cho rằng, cơ cấu phân bổ nguồn vốn FDI vào Việt Nam khá mất cân đối?

Đúng là trước đây, dòng vốn FDI tập trung quá nhiều vào lĩnh vực bất động sản và khai thác khoáng sản, nhưng dòng vốn này đã bắt đầu chuyển hướng sang những lĩnh vực khác.

FDI thường tập trung vào những lĩnh vực có mức  lợi nhuận cao nhất. Gần đây, chúng ta tăng cường quản lý nhà nước trong lĩnh vực khai thác khoáng sản, như ban hành Luật Khoáng sản, Luật Thuế tài nguyên và tới đây là Luật Thuế bảo vệ môi trường, nên lĩnh vực này không còn hấp dẫn như trước đây. Trong khi đó, chúng ta lại ban hành nhiều chính sách khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực khác, đặc biệt sản xuất công nghiệp, dịch vụ, du lịch... Theo tôi, đây là sự chuyển hướng kịp thời, bởi nếu không, đến một lúc nào đó, khi nguồn tài nguyên cạn kiệt, thì việc thu hút FDI sẽ không còn hấp dẫn nữa.

Thế còn việc FDI tập trung quá nhiều vào lĩnh vực bất động sản thì sao?

Gần đây, dòng FDI không còn quá tập trung vào lĩnh vực bất động sản nữa, nhưng lĩnh vực này vẫn rất hấp dẫn. Tôi cho rằng, không nên quản lý quá chặt lĩnh vực bất động sản, bởi trên thực tế, nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào bất động sản không phải chỉ xây dựng văn phòng, cao ốc cho thuê hoặc đầu tư sau đó bán để thu lợi nhuận, mà họ có xu hướng gắn đầu tư bất động sản với hoạt động kinh doanh du lịch. Một trong những lĩnh vực Việt Nam cần tận dụng để phát triển khi gia nhập WTO là du lịch, vì lĩnh vực này có rất nhiều tiềm năng và có thể khai thác lâu dài. Vấn đề đặt ra là phải có cách thức quản lý và đầu tư phù hợp.

Cụ thể là gì, thưa ông?

Tại nhiều phiên họp của Chính phủ, tôi đã đề nghị xây dựng Chiến lược Phát triển du lịch trung và dài hạn, trong đó phải quy hoạch lại các vùng du lịch hiện nay. Để phát triển du lịch lâu dài, khai thác tối đa những thuận lợi, như cảnh quan thiên nhiên phong phú, văn hoá đa dạng, nhiều di sản văn hoá vật thể và phi vật thể được quốc tế công nhận..., bên cạnh những loại hình du lịch đại chúng dành cho khách nước ngoài có thu nhập trung bình, thì cũng cần có loại hình du lịch cao cấp dành cho những du khách nước ngoài có khả năng chi trả. Để phát triển các loại hình du lịch này, rất cần nguồn vốn FDI để xây dựng cơ sở hạ tầng, các vui chơi giải trí cho khách lưu trú.

(Theo Mạnh Bôn // Báo đầu tư)

  • Tín nhiệm thấp do “kinh tế khó khăn”
  • Nhà ngoại giao Tôn Nữ Thị Ninh và những kinh nghiệm đối ngoại
  • Nâng chỉ tiêu lạm phát để… cứu doanh nghiệp?
  • “Kết quả lấy phiếu tín nhiệm sẽ công khai”
  • Hai dự án bauxit-alumin: Nộp ngân sách 400 tỷ đồng/năm?
  • DN tự in hóa đơn ít gian lận thuế hơn
  • Thị trường vàng còn nhiều ẩn số
  • Chuyển đổi doanh nghiệp Nhà nước: “Bình” mới, “rượu” có mới?
  • Phải tìm ra động lực phát triển cho các đô thị vệ tinh
  • “Chất lượng môi trường có thể xuống cấp 2-3 lần”
  • Xây dựng Quỹ bảo trì đường bộ: Nên bỏ trạm thu phí
  • "Không có cơ sở nói doanh nghiệp đang gom USD"
  • 'Giá điện chưa thả nổi, thì còn... thiếu điện'
 tinkinhte.com
 tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com

  • Giáo sư Trần Văn Thọ: Một tiếp cận khác về chiến lược phát triển 2011-2020
  • Tái cấu trúc nền kinh tế: Đơn đã kê, bệnh nhân có chịu uống thuốc?
  • Thế giới nhìn nhận, đánh giá về triển vọng môi trường kinh doanh của Việt Nam
  • Quan điểm chiến lược phát triển vùng kinh tế trọng điểm Việt Nam đến 2020
  • Phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2015: Tập trung huy động vốn, chuyển đổi cơ cấu kinh tế
  • Quy hoạch chung Thủ đô: 90 tỷ USD cho hạ tầng có khả thi?
  • Phát triển kinh tế biển đảo Việt Nam: Thực trạng và triển vọng
  • Ts.Trần Công Hòa: Kinh tế Việt Nam 2010 - Một số khuyến nghị
  • Nóng hầm hập: Nhập siêu - Bội chi ngân sách - Chính sách tiền tệ
  • Bàn về cải cách cơ cấu và tái cấu trúc nền kinh tế
  • Việt Nam 2009: Các chỉ số kinh tế và bốn hạn chế từ góc nhìn thống kê
  • Kinh tế Việt Nam 2009 và một vài suy nghĩ về nhận thức luận chuyển đổi