Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, Nguyễn Văn Giàu. (Ảnh: Hữu Việt/TTXVN)
Trong mấy ngày qua dư luận xôn xao về việc Ngân hàng Nhà nước đang xây dựng dự thảo để trình Chính phủ, trong đó có cụm từ “tiến tới sẽ xóa bỏ kinh doanh vàng miếng trên thị trường tự do”, ngày 1/3, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã có cuộc trao đổi với báo chí xung quanh vấn đề này.
- Bất cứ một người dân nào có vàng trong tay dù ít hay nhiều thì cũng quan tâm đến nội dung dự thảo “tiến tới xóa bỏ vàng miếng trên thị trường tự do”, là cơ quan thực hiện xin Thống đốc giải thích rõ cụm từ này sẽ như thế nào và lộ trình thực hiện này như thế nào?
Thống đốc Nguyễn Văn Giàu: Gần hai năm nay, Thủ tướng chính phủ có giao cho Ngân hàng Nhà nước xây dựng lại Nghị định của Chính phủ về quản lý vàng thay cho Nghị định 174 cũ. Tôi cũng đang xem nhiều văn bản ban hành trước đó, đến nay thì dự thảo cơ bản thông qua cấp Bộ cơ bản đang trong giai đoạn trình lên Chính phủ sau đó chính thức lấy ý kiến của các bộ rồi báo cáo Chính phủ.
Tinh thần đối với vàng trước đây xem như là hàng hóa, hàng hóa lưu thông bình thường. Trong vài năm gần đây xuất hiện nhiều mặt tích cực nhưng cũng nhiều mặt tiêu cực như gắn với thị trường ngoại tệ, phát sinh đầu cơ. Tất cả chúng ta ngồi ở đây ai cũng biết, dự trữ vàng trở thành thói quen, tập quán người Việt Nam thích dự trữ vàng. Dân Việt Nam mua vàng về để làm của hồi môn.
Còn việc “tiến tới xóa bỏ,” chúng ta cứ hình dung là xóa bỏ có một lộ trình đi không gây bất lợi cho nền kinh tế, kể cả quyền lợi của nhân dân. Chứ mình đừng có hình dung nói xóa bỏ là cấm, rồi xuất hiện chợ đen, chợ đỏ, theo tôi không phải như vậy.
Nội dung chủ yếu của dự thảo là giải phóng năng lực sản xuất, đây là tài sản của nền kinh tế, tất cả đưa vào sản xuất, tạo ra của cải vật chất, đem lại ích nước lợi nhà.
Thứ hai, một quốc gia không thể có nhiều phương tiện thanh toán. Khi cho lưu thông vàng miếng trở thành công cụ thanh toán. Hiện nay ở nước ta đã xuất hiện tình trạng thanh toán bằng vàng miếng như mua nhà, mua đất. Tôi nghĩ các nhà kinh tế và các bạn cũng không đồng tình chuyện đấy. Còn chuyện tích trữ làm của hồi môn, tôi nghĩ tài sản của người dân cũng không có gì vướng lắm, người ta mua dây chuyền hay những sản phẩm chế tác thì bình thường thôi, không có gì phải băn khoăn ở đây cả.
- Một số chuyên gia cũng lo ngại quá trình kiểm soát thị trường vàng hiện nay, người dân lại chuyển sang vàng trang sức, ý kiến Thống đốc về vấn đề này thế nào?
Thống đốc Nguyễn Văn Giàu: Vấn đề có nhiều người sợ biến tướng trong quản lý thì chúng tôi cũng đã có phương án, nhưng tôi tin tưởng rằng riêng vàng không hề đơn giản. Khi người ta tự chế biến, riêng mặt chất lượng cũng không thể đảm bảo an toàn. Bên cạnh đó đây là mặt hàng công kềnh không đảm bảo tính an toàn. Chúng ta phải làm công tác tuyên truyền để người dân hiểu được điều đó.
Dự kiến khi Nghị định có hiệu lực thì bao giờ cũng có một khoảng thời gian để điều chỉnh. Nếu thị trường bị ảnh hưởng giá vàng trong nước thấp hơn giá vàng thế giới mà mục tiêu của chúng ta là tiệm cận với giá thế giới, thì Ngân hàng Nhà nước sẽ ủy thác qua một số tổ chức mua để cân bằng thị trường hoặc cho phép xuất khẩu để lấy ngoại tệ về. Tôi nghĩ chính sách này ra cũng không phải là tiêu cực, ảnh hưởng đến nhiều quyền lợi của người dân.
- Liên quan đến lãi suất, Ngân hàng Nhà nước cũng cho rằng theo Nghị quyết 18 của Chính phủ, thực hiện mặt bằng lãi suất hợp lý. Ví dụ như năm ngoái phấn đấu để giảm xuống 14-15% đối với những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Vậy trong năm nay, Thống đốc có thể đưa ra mặt bằng lãi suất như thế nào để doanh nghiệp nhìn vào và hy vọng được?
Thống đốc Nguyễn Văn Giàu: Riêng với vấn đề lãi suất, hôm trước có khuynh hướng cho rằng phải kéo được lãi suất xuống thì lạm phát mới có thể giảm. Nhưng đến nay tư tưởng này không còn nữa vì nó ngược với lý luận kinh điển nhưng lãi suất cao kéo dài sẽ tác động xấu tới nền kinh tế. Nhưng ngắn hạn cũng không nên hiểu là một tháng, hay hai tháng.
Có một cái mới trong gói giải pháp là khi giảm tổng cầu và các quy định cứng của nhà nước và làm đúng kịch bản, Ngân hàng điều hành mạnh mẽ sẽ tạo thị trường không mất cân đối cung cầu (cung sẽ lớn hơn cầu) khi đó lãi suất sẽ giảm. Tất cả đồng thuận giảm tổng cầu tức là sẽ giảm nhập khẩu, nhập siêu, giảm tín dụng.
Theo kết quả lấy phiếu tín nhiệm các chức danh, cán bộ chủ chốt do Hội đồng Nhân dân thành phố Hà Nội công bố chiều 4/7, ông Nguyễn Đình Đức, Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Nội là người có số phiếu “tín nhiệm cao” ít nhất trong số 18 cán bộ lãnh đạo Hà Nội, với 27 phiếu. Ông Đức cũng là người có số phiếu “tín nhiệm thấp” nhiều nhất với 23 phiếu.
Trong một cuộc trò chuyện với các cán bộ, nhân viên nữ công tác tại Bộ Ngoại giao, bà Tôn Nữ Thị Ninh đã chia sẻ những bài học kinh nghiệm của bản thân trong phát huy thế mạnh của nhà ngoại giao nữ.
Tại hội thảo chuyên đề về chính sách tiền tệ và lạm phát mục tiêu cuối tuần qua, ông Nguyễn Đức Hưởng, Phó chủ tịch Hội đồng Quản trị Ngân hàng Bưu điện Liên Việt (LienVietPostBank), đưa ra một quan điểm trái chiều.
Tại cuộc họp báo của Văn phòng Quốc hội về kỳ họp thứ 5, các câu hỏi chuyển tới Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc chủ yếu tập trung vào nội dung lấy phiếu tín nhiệm mà Quốc hội dự kiến sẽ dành khoảng 3 ngày thực hiện công việc này.
Ngày 16/5, tại buổi họp báo về 2 dự án Tổ hợp bauxit-alumin (nhôm) Lâm Đồng và dự án alumin Nhân Cơ (Đăk Nông), TS Nguyễn Tiến Chỉnh - Trưởng Ban Khoa học công nghệ và Chiến lược phát triển (thuộc Vinacomin) khẳng định, 2 dự án có hiệu quả về kinh tế. Theo tính toán sẽ nộp ngân sách 400 tỷ đồng/năm.
Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Nguyễn Mạnh Hiển cho rằng, giá đất tăng lên chủ yếu do Nhà nước chuyển đổi mục đích sử dụng, đầu tư cơ sở hạ tầng. Do đó, lẽ ra Nhà nước phải được hưởng lợi.
"Chất lượng các dự án giao thông có được cải thiện, nhưng đâu đó vẫn có hiện tượng xuống cấp như báo chí phản ánh. Song tôi khẳng định điều này không phải do thiếu vốn", Bộ trưởng Giao thông Vận tải Hồ Nghĩa Dũng trao đổi chiều 14/3.
“Về tâm lý thì việc Trung Quốc dự kiến xây nhà máy điện hạt nhân gần biên giới Việt Nam gây lo ngại là đúng”, TS. Lê Văn Hồng, Phó viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam bày tỏ.
“Việc Quốc hội biểu quyết thông qua chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế là không còn phù hợp với kinh tế thị trường”, ông Lê Xuân Bá - Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, bày tỏ quan điểm.
Phí tổn tăng trưởng thời gian qua của Việt Nam cao hơn nhiều quốc gia nên “không cạnh tranh được với ai cả”. Như vậy phải bàn giải pháp làm sao để “cái bánh” tăng trưởng lớn nhưng phí tổn giảm đi và đó là vấn đề quan trọng.
FAST500 đo lường tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp Việt Nam (đo tính động trong hoạt động doanh nghiệp). Bảng xếp hạng sẽ cung cấp cái nhìn toàn cảnh về doanh nghiệp Việt Nam hậu WTO và khi Luật Doanh nghiệp được ban hành.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Với sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 cùng tham vọng và thực lực của Trung Quốc cũng như những tuyên bố bất chấp dư luận quốc tế của giới lãnh đạo nước này trong thời gian qua đã đặt Việt Nam trước việc phải chấp nhận một thực tế là trong giai đoạn tới, đất nước sẽ phải phát triển kinh tế trong điều kiện không có có môi trường hoàn toàn thuận lợi do những lo ngại về bất ổn.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Các nước lớn đóng vai trò rất quan trọng trong việc dàn xếp các cuộc xung đột mang tính quốc tế và nhiều khi họ sử dụng các vấn đề của thiên hạ để phục vụ cho những tính toán của riêng mình
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
Sau gần 25 năm đổi mới, bộ mặt kinh tế, xã hội Việt Nam đã khác hẳn. So với 10 năm trước, đời sống của dân chúng nói chung hiện nay được cải thiện nhiều, vị trí của Việt Nam trên thế giới cũng tăng lên đáng kể. Rõ ràng ở đây có vấn đề hiệu suất phát triển, có khả năng bỏ lỡ các cơ hội mà nguyên nhân sâu xa nằm ở cơ chế, ở sự chậm hoàn thiện cơ chế thị trường, ở năng lực nắm bắt cơ hội, và việc thực thi các chính sách, vì các điều kiện về bối cảnh khu vực và cơ hội phát triển Việt Nam không bất lợi so với các nước lân cận.
Bàn cờ kinh tế VN bị chia thành rất nhiều mảnh nhỏ. Các mảnh này thường bị chi phối bởi các nhóm độc quyền và đặc quyền. Điểm yếu cơ bản nhất trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam là tăng trưởng chủ yếu nhờ vào việc bán tài nguyên và gia công trình độ thấp, nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà nước vốn kém hiệu quả làm chủ đạo.
Việt Nam tăng 18 bậc lên vị trí thứ 71 trong bảng chỉ số về môi trường thương mại toàn cầu năm 2010 vừa được WEF công bố. Trong tổng số 125 nền kinh tế được WEF xem xét năm nay Singapore và Hồng Công tiếp tục dẫn đầu thế giới về phương diện tạo điều kiện thuận lợi cho tăng cường trao đổi thương mại toàn cầu.
Hiện nay quy mô của các vùng kinh tế trọng điểm (VKTTĐ) đã mở rộng đến gấn 25% diện tích và chiếm khoảng 70% thu nhập kinh tế của cả nước. Một vấn đề đặt ra là: quan điểm ngày càng mở rộng quy mô diện tích của các VKTTĐ của Việt Nam có hợp lý hay không? Làm thế nào để các VKTTĐ phải thực sự là động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế của cả nước ,có một thế đứng vững chắc trong tương lai nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
Ngày 17-5, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) đã tổ chức hội thảo tham vấn cho dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 5 năm 2011-2015, với sự tham gia của đại diện các cơ quan quốc tế. Nội dung chủ yếu nêu lên bức tranh toàn cảnh về KT-XH, cùng những vấn đề liên quan khi nước ta bước vào giai đoạn "đệm" chuyển tiếp để cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020.
Bên cạnh những vấn đề quản lý đô thị, trung tâm hành chính quốc gia… thì bài toán kinh tế là băn khoăn lớn nhất khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về đồ án quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, sáng 11/5.
Kể từ khi khu kinh tế ven biển đầu tiên là Chu Lai được thành lập năm 2003, đến nay đã có 14 khu kinh tế biển được thành lập, gồm 2 khu ở đồng bằng sông Hồng, 10 khu ở vùng duyên hải miền Trung và 2 khu ở miền Nam. Theo Quy hoạch phát triển các KKT biển đến năm 2020 cả nước sẽ có 15 khu kinh tế biển với kinh phí đầu tư khoảng 162.000 tỷ đồng và tạo việc làm cho khoảng 500.000 ngàn người.
Tại bài viết mới nhất trên blog của mình, TS. Trần Công Hòa đã phân tích và đưa ra một số khuyến nghị về hoạch định chính sách và điều hành nền kinh tế 2010: tiếp tục giảm giá VND; cắt giảm chi tiêu công; tăng tính độc lập của NHNN; kiên quyết cho phá sản những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ; điều chỉnh chính sách thuế ở một số lĩnh vực theo phương thức lũy tiến; phát triển công nghiệp phụ trợ;...
Tăng trưởng luôn luôn là một cuộc trường chinh. Vì vậy, không thể chỉ vì tăng trưởng ngắn hạn mà hy sinh sự ổn định và bền vững trong dài hạn. Cổ nhân ngày xưa có câu “dục tốc bất đạt”, không những thế cái giá phải trả cho kinh tế bất ổn rất lớn, chỉ cần nhìn sang mấy nước xung quanh như Thái Lan, Indonesia hay Philippines là có thể thấy rất rõ điều này.
Cải cách cơ cấu là một đòi hỏi nghiệt ngã đối với tất cả các nước muốn tiến bước trên con đường đi đến phồn vinh. Thế nhưng, có nhiều nước không chủ động vượt qua đòi hỏi này khi tình thế kinh tế còn thuận lợi và thường bắt đầu nó quá muộn khi đất nước đã rơi vào khủng hoảng. Điều này lý giải tại sao nhiều nước có khởi đầu tốt nhưng rồi sa lầy trong cạm bẫy của mức thu nhập trung bình ...
Năm 2009, tăng trưởng GDP đạt 5,32%; lạm phát được kiềm chế dưới 7%; hệ số ICOR là 5, 16. Những con số này có thể cho cảm nhận kinh tế vĩ mô đang ở tình trạng khá ổn định. Tuy nhiên Tổng cục Thống kê cho rằng các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc, bất bình đẳng giầu nghèo tăng, chậm được khắc phục,...
Nền kinh tế của Việt Nam đã và đang ngày một trở nên phức tạp hơn, với các cơ chế, thị trường, tổ chức và lực lượng kinh tế mới ra đời trong suốt hơn hai thập niên đổi mới. Sự gấp gáp của cuộc đua tranh kinh tế được nhân lên bằng hành trình hội nhập, trong đó Việt Nam là thành viên mới của WTO.