Từ nay đến năm 2014, cung xi măng của nước ta sẽ tiếp tục cao hơn cầu. Tuy nhiên, lượng dư thừa này sẽ ở mức có thể chấp nhận, nếu có sự điều tiết ngay từ bây giờ.
Đó là nhận định của ông Lê Văn Tới, Vụ trưởng Vụ Vật liệu xây dựng (Bộ Xây dựng) khi trao đổi với VnEconomy, trước các lo ngại về tình trạng dư thừa xi măng hiện nay.
Cũng theo ông Tới, việc khuyến khích các doanh nghiệp tích cực tìm kiếm thị trường và xuất khẩu xi măng chỉ là giải pháp tình thế trong thời điểm cung vượt cầu.
Dư thừa vẫn ở mức chấp nhận được
Năm 2010, theo ước tính lượng xi măng dư thừa của cả nước là gần 3 triệu tấn, ông có lo ngại về điều này?
Theo tính toán, toàn ngành năm nay có thể sản xuất khoảng 53 triệu tấn xi măng. Trong khi đó, lượng tiêu thụ dự báo chỉ đạt khoảng 50,5-51,5 triệu tấn. Như vậy, dư thừa là khoảng 1,5-2,5 triệu tấn. Về góc độ vĩ mô, mức dư thừa này là cần thiết để sẵn sàng đáp ứng khi nhu cầu của thị trường có biến động. Lượng tồn kho trên dưới 1,5 triệu tấn không phải là quá lớn, sẽ giúp tránh việc giá cả bị đẩy lên cao, khi nhu cầu tăng mạnh, gây thiệt hại cho người tiêu dùng.
Tuy nhiên, tình trạng này cũng khiến một số nhà máy gặp khó khăn. Đặc biệt là những đơn vị mới đi vào sản xuất, sản phẩm chưa có thương hiệu trên thị trường. Về tâm lý, người tiêu dùng thường thích chọn các sản phẩm đã được khẳng định về chất lượng qua thực tế.
Tiếp đến là các nhà máy có công nghệ kém, tiêu hao nhiều nguyên nhiên liệu hơn các nhà máy khác, khiến giá thành cao, sản phẩm khó cạnh tranh trên thị trường.
Các nhà máy có vị trí địa lý không thuận lợi cho việc vận chuyển nguyên nhiên liệu, xa nơi tiêu thụ và các doanh nghiệp chưa gây dựng được hệ thống phân phối rộng khắp cũng là những đối tượng sẽ gặp bất lợi trong giai đoạn này. Có thể nói từ năm 2010 các cơ sở sản xuất xi măng đã bước vào giai đoạn cạnh tranh thực sự. Như vậy, không ít doanh nghiệp sản xuất xi măng trong nước sẽ tiếp tục gặp khó vì theo dự báo các năm từ 2011- 2014, lượng dư thừa sẽ vào khoảng 4-8 triệu tấn/năm?
Đúng là tình trạng dư thừa sẽ tiếp tục xảy ra trong những năm tới vì nhu cầu có tăng nhưng nguồn cung còn tăng mạnh hơn. Lượng dư thừa có thể lên tới 10%, hoặc cao hơn so với sản lượng sản xuất hàng năm của toàn quốc, nếu không có sự định hướng và điều chỉnh quy hoạch kịp thời. Tuy nhiên, tăng trưởng nguồn cung vào giai đoạn tới sẽ không “thăng hoa” như giai đoạn 2005- 2010, do giai đoạn này chúng ta đã kích cung.
Xuất khẩu chỉ là giải pháp tình thế Trước bài toán cung vượt quá cầu của ngành xi măng, Bộ Xây dựng đã có những biện pháp gì để điều tiết, thưa ông?
Ngay từ cuối năm 2009, sau khi đánh giá việc thực hiện Quy hoạch phát triển xi măng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, Bộ Xây dựng đã đề nghị với Thủ tướng Chính phủ một số biện pháp nhằm điều tiết cung cầu.
Thủ tướng cũng đã đồng ý về các biện pháp do Bộ Xây dựng đề xuất. Theo đó, Bộ Xây dựng đã có công văn gửi các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đề nghị không đăng ký tiếp các dự án đầu tư sản xuất xi măng mới.
Qua kết quả rà soát, Bộ Xây dựng đã đề nghị Thủ tướng dừng một số dự án đã có trong quy hoạch nhưng triển khai chậm, triển khai với khối lượng không đáng kể và khó có điều kiện triển khai tiếp.
Bộ Xây dựng cũng đã đề xuất với Thủ tướng những biện pháp kich cầu tiêu thụ xi măng. Tôi cho rằng đây là biện pháp căn cơ, có tính bền vững. Còn khuyến khích các doanh nghiệp tích cực tìm kiếm thị trường và xuất khẩu xi măng chỉ là giải pháp tình thế trong thời điểm cung vượt cầu.
Theo phản ánh từ các doanh nghiệp xi măng việc xuất khẩu và tìm kiếm thị trường xuất khẩu cho xi măng là việc không hề đơn giản, ông đánh giá sao về điều này?
So với mặt hàng khác, xi măng là mặt hàng có giá trị thấp trên cùng trọng lượng và thể tích, lại không lưu giữ được lâu. Chúng ta cũng đang thiếu cảng, phương tiện bốc xếp chuyên dùng để xuất khẩu xi măng. Điều đó khiến cho việc xuất khẩu xi măng không đơn giản.
Thêm vào đó, hiện hầu hết các doanh nghiệp xi măng nước ta chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc tìm kiếm thị trường xuất khẩu cho sản phẩm, càng chưa có kinh nghiệm thực tế và tính chuyên nghiệp trong việc tổ chức xuất khẩu để mang lại hiệu quả.
Tuy nhiên trong cơ chế hiện nay, các doanh nghiệp cần phải tự nâng cao năng lực của mình. Song, sự chỉ đạo của Chính phủ, sự phối hợp chặt chẽ và hữu hiệu của các ngành, đặc biệt là giao thông vận tải trong việc đầu tư mới các cảng chuyên dùng, cải tạo và nâng cao năng lực cảng để bốc xếp sản phẩm xi măng là rất cần thiết. Có ý kiến cho rằng sản xuất xi măng là một ngành tiêu tốn nhiều tài nguyên thiên nhiên, vì vậy không nên khuyến khích việc xuất khẩu. Quan điểm của ông như thế nào?
Tôi cho rằng chúng ta không đặt mục tiêu là sản xuất xi măng để xuất khẩu. Xuất khẩu xi măng chỉ là để điều hoà cung cầu cho thị trường nội địa trong giai đoạn cung vượt cầu. Vậy yêu cầu của Bộ đối với 3 doanh nghiệp là Công ty Xi măng Nghi Sơn, Công ty Xi măng Chinfon Hải Phòng, Công ty Xi măng Phúc Sơn là xuất khẩu 100-150 nghìn tấn xi măng trong sáu tháng cuối năm có phải là quá khó?
Trước bài toán cung vượt quá cầu của ngành xi măng, Bộ Xây dựng đã có công văn gửi Công ty Xi măng Nghi Sơn, Công ty Xi măng Chinfon Hải Phòng, Công ty Xi măng Phúc Sơn về việc xúc tiến thị trường xuất khẩu xi măng.
Khi được cấp phép, các doanh nghiệp này đã phải cam kết sẽ xuất khẩu 30-40% sản lượng sản xuất/năm. Trước đây, khi thị trường trong nước cung chưa đáp ứng được nhu cầu thì các doanh nghiệp đó không phải xuất khẩu. Hiện nay cung đang vượt cầu nên Bộ yêu cầu họ phải thực hiện cam kết của mình.
Theo đó, trong sáu tháng cuối năm 2010, mỗi công ty xuất khẩu từ 100-150 nghìn tấn xi măng. Tiếp đến năm 2011, các doanh nghiệp này sẽ phải xuất khẩu 50% sản lượng xi măng đã cam kết. Năm 2012, con số này là 100%.
Tập đoàn mẹ của các công ty này đều là các doanh nghiệp có bề dày trong việc sản xuất và xuất khẩu xi măng. Tôi cho rằng họ sẽ không gặp nhiều khó khăn khi thực hiện cam kết.
Nếu không thực hiện theo đúng như cam kết, chế tài nào sẽ được áp dụng đối với các doanh nghiệp này?
Chế tài thì có nhiều, nhưng không nên nói đến bây giờ, khi mà các doanh nghiệp đang khẩn trương thực hiện cam kết. Còn đối với các doanh nghiệp xi măng đang gặp khó khăn, cơ quan quản lý đã và đang có những biện pháp gì nhằm tháo gỡ giúp họ, thưa ông?
Bộ Xây dựng đã kiến nghị Chính phủ có biện pháp kích cầu nội địa cho sản phẩm xi măng. Trong đó có việc đẩy mạnh việc làm đường bằng bê tông xi măng, thay thế cho đường asphan (kể cả đường cao tốc, quốc lộ); nâng cấp các tuyến đường, đầu tư cảng chuyên dùng để hỗ trợ việc vận chuyển sản phẩm xi măng từ Bắc vào Nam, cũng như xuất khẩu.
Bên cạnh đó, khuyến khích phát triển sản xuất vật liệu xây dựng không nung, thay thế dần gạch đất sét nung cũng là một giải pháp vừa kích cầu cho xi măng, lại hạn chế sử dụng tài nguyên đất sét, bảo vệ môi trường và tạo điều kiện công nghiệp hóa ngành xây dựng.
Theo kết quả lấy phiếu tín nhiệm các chức danh, cán bộ chủ chốt do Hội đồng Nhân dân thành phố Hà Nội công bố chiều 4/7, ông Nguyễn Đình Đức, Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Nội là người có số phiếu “tín nhiệm cao” ít nhất trong số 18 cán bộ lãnh đạo Hà Nội, với 27 phiếu. Ông Đức cũng là người có số phiếu “tín nhiệm thấp” nhiều nhất với 23 phiếu.
Trong một cuộc trò chuyện với các cán bộ, nhân viên nữ công tác tại Bộ Ngoại giao, bà Tôn Nữ Thị Ninh đã chia sẻ những bài học kinh nghiệm của bản thân trong phát huy thế mạnh của nhà ngoại giao nữ.
Tại hội thảo chuyên đề về chính sách tiền tệ và lạm phát mục tiêu cuối tuần qua, ông Nguyễn Đức Hưởng, Phó chủ tịch Hội đồng Quản trị Ngân hàng Bưu điện Liên Việt (LienVietPostBank), đưa ra một quan điểm trái chiều.
Tại cuộc họp báo của Văn phòng Quốc hội về kỳ họp thứ 5, các câu hỏi chuyển tới Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc chủ yếu tập trung vào nội dung lấy phiếu tín nhiệm mà Quốc hội dự kiến sẽ dành khoảng 3 ngày thực hiện công việc này.
Ngày 16/5, tại buổi họp báo về 2 dự án Tổ hợp bauxit-alumin (nhôm) Lâm Đồng và dự án alumin Nhân Cơ (Đăk Nông), TS Nguyễn Tiến Chỉnh - Trưởng Ban Khoa học công nghệ và Chiến lược phát triển (thuộc Vinacomin) khẳng định, 2 dự án có hiệu quả về kinh tế. Theo tính toán sẽ nộp ngân sách 400 tỷ đồng/năm.
Theo số liệu từ Văn phòng Chính phủ, tổng tài sản của Vinashin là hơn 90 ngàn tỉ đồng và số nợ hiện là 80 ngàn tỉ đồng. Đây là con số quá lớn so với tổng tài sản tập đoàn này có. Cần phải có các cơ quan chuyên môn thanh tra kiểm toán đi vào xem xét cụ thể các bảng cân đối kế toán, xem xét cụ thể các sổ kế toán cũng như thông tin chính thức của Vinashin mới thoả đáng”, TS Đặng Văn Thanh, nguyên phó chủ nhiệm uỷ ban Kinh tế và ngân sách Quốc hội, chủ tịch hội Kế toán – Kiểm toán Việt Nam kiến nghị.
“Các doanh nghiệp chạy đua cạnh tranh mua bản quyền phát sóng các giải bóng đá quốc tế đã đẩy giá bản quyền cao lên mức bất hợp lý. Thiệt thòi lớn nhất lại đổ đầu người tiêu dùng. Điều này cần phải xem xét lại”.
Trao đổi với PV bên hành lang kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XII, ông Nguyễn Đình Xuân - Ủy viên UB Khoa học Công nghệ và Môi trường của Quốc hội cho rằng: Nghị quyết số 66/QH11 ngày 29/6/2006 của Quốc hội về dự án, công trình quan trọng quốc gia trình Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư cần phải khắc phục tình trạng lách luật để trục lợi, tránh tình trạng khi phát hiện sai, truy trách nhiệm thì những người có trách nhiệm lại bảo: “Địa phương họ làm đúng, khổ thế !”.
Ngày 8-7, Đoàn giám sát của Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã làm việc với lãnh đạo thành phố Hà Nội về việc thực hiện công tác cải cách thủ tục hành chính (CCTTHC), đặc biệt là những vướng mắc và giải pháp tháo gỡ để CCTTHC không còn là “điểm ngẽn” đối với lĩnh vực đất đai, xây dựng.
"Một khi vẫn còn cái ông lớn chủ đạo, vẫn ngốn hết nguồn lực của đất nước và thâu tóm hết quyền thiết kế chính sách có lợi cho mình, thì làm sao thằng nhỏ động lực tăng tốc được" - Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan nói.
Ông Bùi Quang Chuyện - Phó Vụ trưởng Vụ Công nghiệp nặng, Bộ Công Thương cho rằng, mặc dù không ủng hộ việc các địa phương cấp phép quá nhiều dự án ngoài quy hoạch, nhưng tình trạng cung vượt cầu hiện nay không phải quá lo ngại.
Trong khi một số ý kiến cho rằng, nguồn vốn vay nước ngoài, trong đó có nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) sử dụng chưa thực sự hiệu quả, thì ông Nguyễn Thành Đô, Cục trưởng Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại (Bộ Tài chính) lại chứng minh điều ngược lại.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Với sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 cùng tham vọng và thực lực của Trung Quốc cũng như những tuyên bố bất chấp dư luận quốc tế của giới lãnh đạo nước này trong thời gian qua đã đặt Việt Nam trước việc phải chấp nhận một thực tế là trong giai đoạn tới, đất nước sẽ phải phát triển kinh tế trong điều kiện không có có môi trường hoàn toàn thuận lợi do những lo ngại về bất ổn.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Các nước lớn đóng vai trò rất quan trọng trong việc dàn xếp các cuộc xung đột mang tính quốc tế và nhiều khi họ sử dụng các vấn đề của thiên hạ để phục vụ cho những tính toán của riêng mình
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
Sau gần 25 năm đổi mới, bộ mặt kinh tế, xã hội Việt Nam đã khác hẳn. So với 10 năm trước, đời sống của dân chúng nói chung hiện nay được cải thiện nhiều, vị trí của Việt Nam trên thế giới cũng tăng lên đáng kể. Rõ ràng ở đây có vấn đề hiệu suất phát triển, có khả năng bỏ lỡ các cơ hội mà nguyên nhân sâu xa nằm ở cơ chế, ở sự chậm hoàn thiện cơ chế thị trường, ở năng lực nắm bắt cơ hội, và việc thực thi các chính sách, vì các điều kiện về bối cảnh khu vực và cơ hội phát triển Việt Nam không bất lợi so với các nước lân cận.
Bàn cờ kinh tế VN bị chia thành rất nhiều mảnh nhỏ. Các mảnh này thường bị chi phối bởi các nhóm độc quyền và đặc quyền. Điểm yếu cơ bản nhất trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam là tăng trưởng chủ yếu nhờ vào việc bán tài nguyên và gia công trình độ thấp, nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà nước vốn kém hiệu quả làm chủ đạo.
Việt Nam tăng 18 bậc lên vị trí thứ 71 trong bảng chỉ số về môi trường thương mại toàn cầu năm 2010 vừa được WEF công bố. Trong tổng số 125 nền kinh tế được WEF xem xét năm nay Singapore và Hồng Công tiếp tục dẫn đầu thế giới về phương diện tạo điều kiện thuận lợi cho tăng cường trao đổi thương mại toàn cầu.
Hiện nay quy mô của các vùng kinh tế trọng điểm (VKTTĐ) đã mở rộng đến gấn 25% diện tích và chiếm khoảng 70% thu nhập kinh tế của cả nước. Một vấn đề đặt ra là: quan điểm ngày càng mở rộng quy mô diện tích của các VKTTĐ của Việt Nam có hợp lý hay không? Làm thế nào để các VKTTĐ phải thực sự là động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế của cả nước ,có một thế đứng vững chắc trong tương lai nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
Ngày 17-5, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) đã tổ chức hội thảo tham vấn cho dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 5 năm 2011-2015, với sự tham gia của đại diện các cơ quan quốc tế. Nội dung chủ yếu nêu lên bức tranh toàn cảnh về KT-XH, cùng những vấn đề liên quan khi nước ta bước vào giai đoạn "đệm" chuyển tiếp để cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020.
Bên cạnh những vấn đề quản lý đô thị, trung tâm hành chính quốc gia… thì bài toán kinh tế là băn khoăn lớn nhất khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về đồ án quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, sáng 11/5.
Kể từ khi khu kinh tế ven biển đầu tiên là Chu Lai được thành lập năm 2003, đến nay đã có 14 khu kinh tế biển được thành lập, gồm 2 khu ở đồng bằng sông Hồng, 10 khu ở vùng duyên hải miền Trung và 2 khu ở miền Nam. Theo Quy hoạch phát triển các KKT biển đến năm 2020 cả nước sẽ có 15 khu kinh tế biển với kinh phí đầu tư khoảng 162.000 tỷ đồng và tạo việc làm cho khoảng 500.000 ngàn người.
Tại bài viết mới nhất trên blog của mình, TS. Trần Công Hòa đã phân tích và đưa ra một số khuyến nghị về hoạch định chính sách và điều hành nền kinh tế 2010: tiếp tục giảm giá VND; cắt giảm chi tiêu công; tăng tính độc lập của NHNN; kiên quyết cho phá sản những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ; điều chỉnh chính sách thuế ở một số lĩnh vực theo phương thức lũy tiến; phát triển công nghiệp phụ trợ;...
Tăng trưởng luôn luôn là một cuộc trường chinh. Vì vậy, không thể chỉ vì tăng trưởng ngắn hạn mà hy sinh sự ổn định và bền vững trong dài hạn. Cổ nhân ngày xưa có câu “dục tốc bất đạt”, không những thế cái giá phải trả cho kinh tế bất ổn rất lớn, chỉ cần nhìn sang mấy nước xung quanh như Thái Lan, Indonesia hay Philippines là có thể thấy rất rõ điều này.
Cải cách cơ cấu là một đòi hỏi nghiệt ngã đối với tất cả các nước muốn tiến bước trên con đường đi đến phồn vinh. Thế nhưng, có nhiều nước không chủ động vượt qua đòi hỏi này khi tình thế kinh tế còn thuận lợi và thường bắt đầu nó quá muộn khi đất nước đã rơi vào khủng hoảng. Điều này lý giải tại sao nhiều nước có khởi đầu tốt nhưng rồi sa lầy trong cạm bẫy của mức thu nhập trung bình ...
Năm 2009, tăng trưởng GDP đạt 5,32%; lạm phát được kiềm chế dưới 7%; hệ số ICOR là 5, 16. Những con số này có thể cho cảm nhận kinh tế vĩ mô đang ở tình trạng khá ổn định. Tuy nhiên Tổng cục Thống kê cho rằng các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc, bất bình đẳng giầu nghèo tăng, chậm được khắc phục,...
Nền kinh tế của Việt Nam đã và đang ngày một trở nên phức tạp hơn, với các cơ chế, thị trường, tổ chức và lực lượng kinh tế mới ra đời trong suốt hơn hai thập niên đổi mới. Sự gấp gáp của cuộc đua tranh kinh tế được nhân lên bằng hành trình hội nhập, trong đó Việt Nam là thành viên mới của WTO.