Với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng, vùng ngọt hóa Nam sông Hậu, việc phát triển nền sản xuất hàng hóa nông nghiệp - thủy sản chất lượng cao là hướng đi thích hợp nhất của tỉnh Hậu Giang.
Tỉnh Hậu Giang được thành lập ngày 1-4-2004, trên cơ sở chia tách từ tỉnh Cần Thơ. Thời điểm lúc ấy, Hậu Giang được xem là một tỉnh thuần nông nghèo, vùng sâu, đứng trước đủ mọi khó khăn, hạ tầng kỹ thuật đô thị còn nhiều yếu kém so với nhu cầu của một đơn vị hành chính cấp tỉnh, đặc biệt hệ thống giao thông đường bộ, thời điểm năm 2004 chỉ từ ngã ba Cái Tắc về tới Vị Thanh chưa tới 40 km mà xe ô-tô đi gần 90 phút thì quả là ngán ngại.
Phát huy nội lực và tranh thủ mọi nguồn lực bên ngoài được Hậu Giang vận dụng khá linh hoạt. Nếu suy xét một cách thấu đáo thì Hậu Giang còn rất nhiều tiềm năng chưa khai thác hết, bên cạnh vị thế là nơi giao lưu của vùng tây sông Hậu, đầu mối trung chuyển giữa vùng tây sông Hậu với vùng bán đảo Cà Mau, quỹ đất còn nhiều là một lợi thế mạnh, là cơ sở để thu hút các dự án đầu tư lớn.
Bởi vậy định hướng đầu tư của tỉnh trong thời gian tới chủ yếu là phát huy tiềm năng và thế mạnh của địa phương.
Với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng, vùng ngọt hóa Nam sông Hậu, việc phát triển nền sản xuất hàng hóa nông nghiệp - thủy sản chất lượng cao là hướng đi thích hợp nhất của tỉnh.
NĂM năm sau khi thành lập tỉnh, nền kinh tế Hậu Giang phát triển với nhịp độ tăng khá cao, duy trì mức tăng trưởng bình quân 5 năm 2004 - 2008 là 11,61% (năm 2003 là 8,4%). Trong đó, khu vực I: Nông, lâm, thủy sản tăng bình quân 5,25%/năm (năm 2003 là 3,22%); khu vực II: Công nghiệp - xây dựng tăng bình quân 15,4%/năm (năm 2003 là 16,28%); khu vực III: Dịch vụ tăng bình quân 17,76%/năm (năm 2003 là 10,01%). Nếu so với kế hoạch 5 năm 2006 - 2010 nhiều chỉ tiêu tính đến nay đã đạt hoặc vượt mục tiêu đề ra, năm sau cao hơn năm trước.
Ðây là mức tăng thuộc loại khá cao so các tỉnh trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long và cả nước. Thu nhập bình quân đầu người (giá thực tế) của Hậu Giang năm 2008 là 10,76 triệu đồng/người/năm, so với năm 2003 gấp 2,03 lần (năm 2003 là 5,297 triệu đồng/người/ năm); quy USD đạt 641 USD (năm 2003 là 342 USD). Giá trị sản xuất toàn ngành nông, lâm, ngư nghiệp của tỉnh Hậu Giang tăng bình quân 9,34%/năm, tốc độ tăng giá trị tăng thêm đạt khá 5,25%, mặc dù thời kỳ này diện tích, sản lượng lúa vụ 3 giảm mạnh, đặc biệt trong năm 2007, bệnh trên cây lúa và gia súc, gia cầm gây thiệt hại không nhỏ đối với sản xuất nông nghiệp.
Bình quân giá trị sản xuất theo giá hiện hành 1 ha đất sản xuất nông nghiệp năm 2003 là 30,7 triệu đồng/năm, đến năm 2008 đạt 48,676 triệu đồng/năm, gấp 1,58 lần. Có nhiều mô hình sản xuất tổng hợp đạt giá trị sản xuất 50 - 100 triệu đồng/ha/năm hoặc cao hơn, lợi nhuận 35 - 40% tùy sản phẩm. Từ một địa bàn nguồn thu ngân sách thấp, thu không đủ chi nên ít ai nghĩ tới, nhất là với tỉnh mới Hậu Giang, vậy mà tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn năm 2008 dự kiến đạt 2.717 tỷ đồng, gấp 7,59 lần so năm 2003 (358 tỷ đồng), tăng bình quân 150%/năm, trong đó thu nội địa 480 tỷ, tăng gấp 6,6 lần so năm 2003 (72,7 tỷ đồng).
Tổng chi ngân sách địa phương dự kiến đến năm 2008 là 2.638 tỷ đồng, gấp hơn 5,6 lần so năm 2003 (470 tỷ đồng), tăng bình quân 141,2%/năm, trong đó chi đầu tư phát triển chiếm 58,22% tổng chi ngân sách địa phương. Chi ngân sách đã tập trung hơn cho mục tiêu đầu tư phát triển, xóa đói, giảm nghèo, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, bảo vệ sức khỏe nhân dân, đồng thời thu hút thêm nguồn lực của dân cư thông qua việc xã hội hóa một số mặt hoạt động kinh tế - xã hội, nhờ đó nhu cầu chi được đáp ứng tốt hơn. Tổng chi ngân sách địa phương tăng khá do ngoài nguồn cân đối chung của ngân sách trung ương giao và bổ sung, tỉnh huy động từ rất nhiều nguồn để chi tăng cho đầu tư phát triển.
Tỉnh Hậu Giang chủ trương tích cực mời gọi đầu tư, tạo mọi điều kiện cho nhà đầu tư, nhất là thủ tục cấp giấy phép đầu tư, thủ tục giao đất, chính sách ưu đãi phát triển công nghiệp, cải cách thủ tục hành chính tạo thuận lợi thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), khá linh hoạt trong việc miễn giảm tiền thuê đất, thuế suất, thuế nhập khẩu đối với các dự án thuộc diện ưu đãi đầu tư... cho nên đã trực tiếp thu hút các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, nhất là những tập đoàn kinh tế lớn như Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam, Công ty TNHH Giấy và bột giấy Lee & Man (Ðài Loan - Trung Quốc).
Ðầu quý II-2008, Ngân hàng Liên Việt được thành lập với số vốn hơn 3 nghìn tỷ đồng, đặt trụ sở chính tại thị xã Vị Thanh, chẳng những góp phần phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Hậu Giang, mà còn mở rộng các hoạt động tín dụng tại Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Tuy số dự án FDI vào tỉnh chưa nhiều nhưng đã xuất hiện một số dự án với quy mô lớn, góp phần gia tăng nhanh chóng của thành phần kinh tế này trong cơ cấu VA. Tính đến cuối tháng 6-2008, toàn tỉnh có 8 dự án đầu tư FDI với tổng vốn đăng ký là 637,22 triệu USD, vốn thực hiện 113,04 triệu USD.
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội huy động trên địa bàn tỉnh Hậu Giang 5 năm 2004 - 2008 ước 15.499 tỷ đồng, tăng bình quân 136,04%/ năm, trong đó có hai dự án liên doanh, sáu dự án 100% vốn nước ngoài; hiện có hai dự án đang hoạt động sản xuất kinh doanh, số còn lại đang trong quá trình triển khai sau giấy phép. Nhìn chung, nguồn vốn đầu tư từ nội lực được khai thác khá hơn, chiếm 80,31% tổng vốn đầu tư, đầu tư nước ngoài chiếm tỷ lệ chưa cao nhưng có xu hướng tăng nhanh; tỷ lệ vốn đầu tư từ khu vực dân cư, các thành phần kinh tế tư nhân có xu hướng tăng cao trong cơ cấu. Các nguồn vốn này tạo điều kiện tốt hơn trong việc phát triển sản xuất kinh doanh, nông nghiệp, nông thôn, xây dựng kết cấu hạ tầng, xóa đói, giảm nghèo.
Từ năm 2004 đến 2008, Hậu Giang giải quyết việc làm tại chỗ cho 94.177 lao động, bình quân mỗi năm 18.835 người. Ðến cuối năm 2008, tỷ lệ lao động được đào tạo 20% tổng số lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân, trong đó tỷ lệ lao động được đào tạo nghề 13,2%. Ngoài các công trình trung ương đầu tư trên địa bàn như: Quốc lộ 1A, đường Nam Sông Hậu, quốc lộ 61, cầu Cái Tư, tuyến lộ Bốn Tổng - Một Ngàn, tuyến lộ Quản Lộ - Phụng Hiệp, đường nối thị xã Vị Thanh - thành phố Cần Thơ, nạo vét hai tuyến đường thủy quốc gia TP Hồ Chí Minh - Kiên Lương và TP Hồ Chí Minh - Cà Mau, kênh Nàng Mau 2, dự án Ô Môn - Xà No...
Ðồng thời tập trung đầu tư nâng cấp, cải tạo các tuyến đường tỉnh, huyện, hệ thống đường nội ô thị xã Vị Thanh, Ngã Bảy, các thị trấn, xây dựng mới bờ kè kinh xáng Xà No để phòng, chống sạt lở đất và tạo mỹ quan đô thị, tạo sức bật phát triển kinh tế - xã hội. Ðến nay Hậu Giang đã thực hiện điện khí hóa được 71 xã, phường, thị trấn, đạt 100%, đường điện trung thế được kéo đến trung tâm các xã, phát triển đường dây hạ thế kết hợp cải tạo lưới điện không an toàn, kéo điện nhánh rẽ và lắp điện kế miễn phí cho các hộ nghèo, hộ gia đình chính sách.
Tỷ lệ hộ dân sử dụng điện toàn tỉnh đạt 91% (năm 2003 đạt 86,2%), trong đó hộ nông thôn chiếm tỷ lệ 88% (năm 2003 đạt 81%). CÔNG tác xóa đói, giảm nghèo là một trong những nội dung trọng tâm của tỉnh Hậu Giang trong các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, thể hiện qua hoạt động đầu tư cơ sở hạ tầng, hỗ trợ phát triển sản xuất, nâng dần mức sống dân cư ở các xã nghèo, các vùng khó khăn, chống tái nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới quốc gia giảm nhanh từ 23,55% vào năm 2005 xuống 13,66% vào cuối năm 2008.
Các địa chỉ trọng điểm mời gọi đầu tư
1/ Khu đô thị Công nghiệp Sông Hậu - Khu Công nghiệp tập trung Sông Hậu, đợt 1, giai đoạn 1. - Cụm Công nghiệp tập trung Phú Hữu A. 2/ Cụm Công nghiệp tập trung Tân Phú Thạnh. 3/ Cụm Công nghiệp - Tiểu thủ Công nghiệp Vị Thanh. 4/ Cụm Công nghiệp - Tiểu thủ Công nghiệp Ngã Bảy. 5/ Thị xã Vị Thanh. 6/ Thị xã Ngã Bảy 7/ Xây dựng nông thôn 8/ Các Khu đô thị mới. - Khu tái định cư dân cư, thương mại Sông Hậu - Khu tái định cư dân cư, thương mại Tân Phú Thạnh - Khu dân cư đường Tây Sông Hậu - Khu dân cư đường tránh quốc lộ 61 9/ Khu du lịch sinh thái, văn hóa, lịch sử Căn cứ Tỉnh ủy 10/ Khu du lịch sinh thái, văn hóa, lịch sử tại Long Mỹ 11/ Khu bảo tồn thiên nhiên Lung Ngọc Hoàng 12/ Khu du lịch sinh thái Tầm Vu 13/ Khu du lịch sinh thái Tây Ðô 14/ Chợ nổi Phụng Hiệp 15/ Khu du lịch sinh thái Viên Lang Bãi Bồi huyện Long Mỹ.
Thực hiện các chính sách xã hội, chăm sóc người có công với nước, mở rộng và tăng kinh phí hoạt động cho trung tâm bảo trợ xã hội nuôi dưỡng người già không nơi nương tựa, trẻ em mồ côi, sống lang thang. Tăng cường vận động toàn xã hội tham gia đóng góp trong 5 năm xây dựng được 522 nhà đại đoàn kết, 3.108 nhà tình thương, sửa chữa 1.471 căn nhà cho hộ đồng bào Khmer nghèo; chăm sóc, phụng dưỡng các Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, người có công, gia đình chính sách đã thành phong trào rộng khắp.
Nâng tầm và phát triển thị xã Vị Thanh và thị xã Ngã Bảy thành các đô thị cửa ngõ vùng Tây sông Hậu và bán đảo Cà Mau, phát huy lợi thế so sánh về mối quan hệ liên vùng kinh tế, thế mạnh về phát triển thương mại - dịch vụ - du lịch, công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp là một chủ trương hết sức đúng đắn, thể hiện cuộc bứt phá ngoại mục của Hậu Giang khỏi thế thuần nông. Tỷ lệ đô thị hóa của tỉnh Hậu Giang tăng dần, từ 11,6% năm 2003 lên khoảng 20% năm 2008.
Công tác quản lý và chỉnh trang đô thị đã và đang được thực hiện theo quy hoạch, các khu, cụm công nghiệp, trung tâm thương mại - dịch vụ, các công trình công ích, phúc lợi xã hội được đầu tư, nâng cấp đáng kể, bao gồm khu đô thị công nghiệp sông Hậu, cụm công nghiệp Tân Phú Thạnh, các công trình văn hóa, thể thao, du lịch, Trung tâm thương mại Vị Thanh, Trung tâm văn hóa, công viên bờ kè kinh xáng Xà No và một số công trình văn hóa, xã hội khác đang phát huy hiệu quả, góp phần tạo mỹ quan và sức sống mới, hướng tới việc xây dựng đô thị "xanh, sạch, đẹp" tạo điều kiện cần thiết để xây dựng thị xã Vị Thanh thành thành phố đô thị loại III thuộc tỉnh, đóng vai trò trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật của tỉnh và vùng Tây sông Hậu và Bắc bán đảo Cà Mau.
Chặng đường mới 5 năm của Hậu Giang thoát khỏi thế thuần nông, làm nên một Hậu Giang năng động, khẳng định vị thế của một tỉnh mới trong thời gian sớm nhất.
Thị trường bất động sản tiếp tục đóng băng, sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp tiếp tục gặp khó khăn, sức mua giảm…, nhiều dự báo không mấy lạc quan về tình hình 6 tháng cuối năm 2013 đã được đưa ra tại phiên khai mạc kỳ họp thứ 7 của Hội đồng Nhân dân thành phố Đà Nẵng, sáng 9/7.
Trong khi đại diện lãnh đạo UBND thành phố Hà Nội khẳng định việc xây dựng các trung tâm thương mại kết hợp chợ hiện đại là xu hướng tất yếu, thì người đứng đầu Hội đồng Nhân dân Thành phố lại không nghĩ như vậy.
Ngày 6/7, Hội đồng Nhân dân thành phố Hà Nội đã thông qua nghị quyết về điều chỉnh giá một số dịch vụ khám, chữa bệnh áp dụng tại các cơ sở y tế công lập thuộc Thành phố quản lý.
Theo Sở Công thương tỉnh Đắk Lắk, qua rà soát quy hoạch phát triển thủy điện vừa và nhỏ trên địa bàn, tỉnh Đắk Lắk đã kiên quyết thu hồi chủ trương đầu tư và loại khỏi quy hoạch 20 dự án thủy điện vừa và nhỏ.
Ngày 9-1, Sở Công thương đã tổ chức hội nghị tổng kết công tác năm 2008 và triển khai nhiệm vụ năm 2009. Phó Chủ tịch UBND thành phố Trần Phước Chính đến dự. Năm 2008, hoạt động công nghiệp (CN), thương mại (TM) trên địa bàn thành phố có rất nhiều biến động và khó khăn nhưng nhìn chung, toàn ngành hoàn thành tốt ba nhiệm vụ trọng tâm, xuất khẩu phát triển tương đối khá, hàng hóa dịch vụ lưu thông thuận lợi, các mặt hàng thiết yếu ổn định về cung cầu, đáp ứng nhu cầu đa dạng và chất lượng ngày cao của nhân dân.
Thị trường ô-tô tại TP Hồ Chí Minh vẫn chưa có dấu hiệu sáng lên dù giá xe ào ào hạ nhằm kích cầu. Quang cảnh đìu hiu, ế ẩm bao trùm các đại lý, salon xe. Những chiếc xe nằm lặng lẽ trong các sa-lon thỉnh thỏang lại được nhân viên lau lại cho bóng, và dường như đó cũng là công việc chờ thời của nhân viên bán hàng trong khi đợi khách.
Sở Khoa học và Công nghệ (KH-CN) TPHCM vừa công bố kết quả đánh giá trình độ công nghệ sản xuất của doanh nghiệp (DN) trên địa bàn thành phố. Kết quả khiến những người quan tâm phải giật mình: Trong số gần 630 DN được khảo sát, chỉ có 1% DN có trình độ công nghệ sản xuất hiện đại.
Theo báo cáo của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Đồng Nai, đã có 21 doanh nghiệp có kế hoạch giảm hơn 3.400 lao động. Nhưng báo cáo tổng hợp tình hình của Liên đoàn Lao động tỉnh cho thấy đã có hơn 6.000 lao động tại 57 doanh nghiệp không được tái ký hợp đồng lao động.
Phát triển cao-su tiểu điền là một trong những giải pháp quan trọng nhằm giúp cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo có điều kiện ổn định sản xuất, phát triển kinh tế gia đình theo mô hình kinh tế trang trại, sản xuất nông sản hàng hoá, làm động lực thúc đẩy công cuộc xóa đói, giảm nghèo một cách bền vững ở khu vực nông thôn của tỉnh Kon Tum.
Ðể tổ chức lại sản xuất phù hợp nhu cầu thị trường, Tiền Giang đang tập trung nghiên cứu, quy hoạch lại diện tích vườn cây ăn quả theo hướng an toàn, chất lượng cao và số lượng lớn nhằm phát huy thế mạnh một cách bền vững, góp phần tăng thu nhập cho nông dân...
Theo Sở Công Thương TP Cần Thơ: Năm 2009, thành phố phấn đấu dẫn đầu khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) về sản xuất công nghiệp với giá trị đạt 18.500 tỉ đồng, tăng gần 3.000 tỉ đồng so năm 2008
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Với sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 cùng tham vọng và thực lực của Trung Quốc cũng như những tuyên bố bất chấp dư luận quốc tế của giới lãnh đạo nước này trong thời gian qua đã đặt Việt Nam trước việc phải chấp nhận một thực tế là trong giai đoạn tới, đất nước sẽ phải phát triển kinh tế trong điều kiện không có có môi trường hoàn toàn thuận lợi do những lo ngại về bất ổn.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Các nước lớn đóng vai trò rất quan trọng trong việc dàn xếp các cuộc xung đột mang tính quốc tế và nhiều khi họ sử dụng các vấn đề của thiên hạ để phục vụ cho những tính toán của riêng mình
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
Sau gần 25 năm đổi mới, bộ mặt kinh tế, xã hội Việt Nam đã khác hẳn. So với 10 năm trước, đời sống của dân chúng nói chung hiện nay được cải thiện nhiều, vị trí của Việt Nam trên thế giới cũng tăng lên đáng kể. Rõ ràng ở đây có vấn đề hiệu suất phát triển, có khả năng bỏ lỡ các cơ hội mà nguyên nhân sâu xa nằm ở cơ chế, ở sự chậm hoàn thiện cơ chế thị trường, ở năng lực nắm bắt cơ hội, và việc thực thi các chính sách, vì các điều kiện về bối cảnh khu vực và cơ hội phát triển Việt Nam không bất lợi so với các nước lân cận.
Bàn cờ kinh tế VN bị chia thành rất nhiều mảnh nhỏ. Các mảnh này thường bị chi phối bởi các nhóm độc quyền và đặc quyền. Điểm yếu cơ bản nhất trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam là tăng trưởng chủ yếu nhờ vào việc bán tài nguyên và gia công trình độ thấp, nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà nước vốn kém hiệu quả làm chủ đạo.
Việt Nam tăng 18 bậc lên vị trí thứ 71 trong bảng chỉ số về môi trường thương mại toàn cầu năm 2010 vừa được WEF công bố. Trong tổng số 125 nền kinh tế được WEF xem xét năm nay Singapore và Hồng Công tiếp tục dẫn đầu thế giới về phương diện tạo điều kiện thuận lợi cho tăng cường trao đổi thương mại toàn cầu.
Hiện nay quy mô của các vùng kinh tế trọng điểm (VKTTĐ) đã mở rộng đến gấn 25% diện tích và chiếm khoảng 70% thu nhập kinh tế của cả nước. Một vấn đề đặt ra là: quan điểm ngày càng mở rộng quy mô diện tích của các VKTTĐ của Việt Nam có hợp lý hay không? Làm thế nào để các VKTTĐ phải thực sự là động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế của cả nước ,có một thế đứng vững chắc trong tương lai nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
Ngày 17-5, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) đã tổ chức hội thảo tham vấn cho dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 5 năm 2011-2015, với sự tham gia của đại diện các cơ quan quốc tế. Nội dung chủ yếu nêu lên bức tranh toàn cảnh về KT-XH, cùng những vấn đề liên quan khi nước ta bước vào giai đoạn "đệm" chuyển tiếp để cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020.
Bên cạnh những vấn đề quản lý đô thị, trung tâm hành chính quốc gia… thì bài toán kinh tế là băn khoăn lớn nhất khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về đồ án quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, sáng 11/5.
Kể từ khi khu kinh tế ven biển đầu tiên là Chu Lai được thành lập năm 2003, đến nay đã có 14 khu kinh tế biển được thành lập, gồm 2 khu ở đồng bằng sông Hồng, 10 khu ở vùng duyên hải miền Trung và 2 khu ở miền Nam. Theo Quy hoạch phát triển các KKT biển đến năm 2020 cả nước sẽ có 15 khu kinh tế biển với kinh phí đầu tư khoảng 162.000 tỷ đồng và tạo việc làm cho khoảng 500.000 ngàn người.
Tại bài viết mới nhất trên blog của mình, TS. Trần Công Hòa đã phân tích và đưa ra một số khuyến nghị về hoạch định chính sách và điều hành nền kinh tế 2010: tiếp tục giảm giá VND; cắt giảm chi tiêu công; tăng tính độc lập của NHNN; kiên quyết cho phá sản những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ; điều chỉnh chính sách thuế ở một số lĩnh vực theo phương thức lũy tiến; phát triển công nghiệp phụ trợ;...
Tăng trưởng luôn luôn là một cuộc trường chinh. Vì vậy, không thể chỉ vì tăng trưởng ngắn hạn mà hy sinh sự ổn định và bền vững trong dài hạn. Cổ nhân ngày xưa có câu “dục tốc bất đạt”, không những thế cái giá phải trả cho kinh tế bất ổn rất lớn, chỉ cần nhìn sang mấy nước xung quanh như Thái Lan, Indonesia hay Philippines là có thể thấy rất rõ điều này.
Cải cách cơ cấu là một đòi hỏi nghiệt ngã đối với tất cả các nước muốn tiến bước trên con đường đi đến phồn vinh. Thế nhưng, có nhiều nước không chủ động vượt qua đòi hỏi này khi tình thế kinh tế còn thuận lợi và thường bắt đầu nó quá muộn khi đất nước đã rơi vào khủng hoảng. Điều này lý giải tại sao nhiều nước có khởi đầu tốt nhưng rồi sa lầy trong cạm bẫy của mức thu nhập trung bình ...
Năm 2009, tăng trưởng GDP đạt 5,32%; lạm phát được kiềm chế dưới 7%; hệ số ICOR là 5, 16. Những con số này có thể cho cảm nhận kinh tế vĩ mô đang ở tình trạng khá ổn định. Tuy nhiên Tổng cục Thống kê cho rằng các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc, bất bình đẳng giầu nghèo tăng, chậm được khắc phục,...
Nền kinh tế của Việt Nam đã và đang ngày một trở nên phức tạp hơn, với các cơ chế, thị trường, tổ chức và lực lượng kinh tế mới ra đời trong suốt hơn hai thập niên đổi mới. Sự gấp gáp của cuộc đua tranh kinh tế được nhân lên bằng hành trình hội nhập, trong đó Việt Nam là thành viên mới của WTO.