Theo số liệu của Bộ Phát triển, Công nghiệp và Ngoại thương Braxin, năm 2008, tổng kim ngạch hai chiều đạt 534,59 triệu USD, tăng 65,35% so với năm 2007.
Trong đó, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Braxin đạt 200,07 triệu USD, tăng 87,25% so với cùng kỳ năm trước (207 triệu USD/106,95 triệu USD). Kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Braxin cả năm 2008 đạt 334,52 triệu USD, tăng 54,62% so với cùng kỳ năm trước.
Trong nhóm hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Braxin trong năm 2008 thì tỉ trọng nhóm hàng cơ khí, máy móc, điện tử, tin học đã vươn lên vị trí thứ nhất, đạt kim ngạch 75,8 triệu USD, chiếm 37,51% tỉ trọng hàng hoá Việt Nam xuất sang Braxin, tăng 367,26% so với cùng kỳ năm trước. Tiếp theo là mặt hàng giày dép giữ vị trí thứ hai, đạt kim ngạch xuất khẩu 47,65 triệu USD, chiếm tỉ trọng 23,82% (tăng 59% so với năm 2007) giá trị kim ngạch hàng hoá xuất sang Braxin. Đứng thứ ba là than đá đạt kim ngạch xuất khẩu 15,58 triệu USD, giảm 23,16% so với năm 2007, chiếm tỉ trọng 7,79% hàng Việt Nam xuất khẩu sang Braxin. Tiếp theo là cao su và dệt may (mỗi loại đạt trên 13 triệu USD). Như vậy có thể nhận định rằng, giá trị kim ngạch hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam vào Braxin còn chiếm tỉ trọng nhỏ. Riêng xuất khẩu giày dép của nước ta sang Braxin chiếm thị phần 15,3% tổng hàng giày dép có xuất xứ từ các nước vào Braxin.
Năm 2008, Braxin nhập khẩu giày dép từ Việt Nam đạt 3,214 triệu đôi, kim ngạch 47,099 triệu USD, chiếm thị phần 15,3%. So với cùng kỳ năm trước, giá trị kim ngạch nhập khẩu tăng 61,1%, số lượng (đôi) tăng 60%. Giá nhập khẩu bình quân hàng giày dép của Việt Nam là 14,65 USD/đôi. Trong khi giá nhập khẩu bình quân hàng giày dép của Trung Quốc là 6,51 USD/đôi.
Theo thống kê của Braxin, giày dép của Việt Nam nhập khẩu vào Braxin qua các năm như sau: 2006 Việt Nam xuất khẩu 1.949.659 đôi, kim ngạch đạt 30.793.245 USD, đơn giá 15,79 USD/đôi, thị phần đạt 21,9%; năm 2007, xuất khẩu 2.009.236 đôi, giá trị 29.240.025 USD, đơn giá 14,55 USD, thị phần chiếm 14%, trong 11 tháng đầu năm 2008 xuất khẩu đạt 3.077.287 đôi, kim ngạch đạt 45.182.089 USD, đơn giá 14,68 USD/đôi, thị phần đạt 15,7%. Cả năm 2008, Việt Nam xuất khẩu 3.213.898 đôi giày sang Braxin, đạt kim ngạch xuất khẩu 47.089.722 USD giá FOB, chiếm thị phần xuất khẩu 15,3%, đơn giá trung bình 14,65 USD/đôi.
Năm 2008, Braxin nhậpk hẩu 39,321 triệu đôi g iày dép các loại, kim ngạch đạt 307,462 triệu USD-giá FOB. So với cùng kỳ năm trước: giá trị kim ngạch nhập khẩu tăng 46,8%, số lượng (đôi) tăng 37,2%, giá trung bình 7,82 USD/đôi.
Thị trường da giày của Braxin vẫn đang mở cửa cho các doanh nghiệp Việt Nam. Chúng ta có thể vừa cạnh tranh theo luật lệ thương mại quốc tế vừa hợp tác với ngành da giày nước bạn để trao đổi về kinh nghiệm, chuyên gia kỹ thuật, thiết kế, sản xuất, tiêu thụ, cung cấp nguyên phụ liệu.
Từ đầu năm đến nay, nhiều doanh nghiệp ngành dệt may, sản xuất xơ, sợi nước ngoài (doanh nghiệp FDI) tìm đến xây dựng nhà máy sản xuất ở Việt Nam với quy mô vốn đầu tư lớn.
Theo đánh giá của hãng tin AFP, ngành dệt may của Việt Nam có nhiều điểm đáng để Bangladesh học tập, nhất là sau vụ sập nhà máy may khiến hàng trăm người thiệt mạng ở nước này mới đây.
Hiện một số công ty may mặc đã có đơn hàng xuất khẩu sang Nhật Bản cho năm 2013, hứa hẹn xuất khẩu mặt hàng này sang Nhật Bản sẽ tiếp tục tăng trưởng tốt trong năm tới.
Trong năm 2008, xuất khẩu hàng dệt may của nước ta sang hai thị trường truyền thống Mỹ và EU đạt được mức tăng trưởng thấp thì xuất khẩu mặt hàng này của nước ta sang các thị trường Đông Bắc lại tăng trưởng rất khả quan.
Tập đoàn SHIKIBO (Nhật Bản) chuyên sản xuất loại vải có tác dụng kháng vi khuẩn tả, thương hàn, lao và virus cúm A/H5N1 cho biết đã hợp tác với Tập đoàn Dệt may Việt Nam, Cty CoMo đưa loại vải FLUTECT vào thị trường Việt Nam.
Tạp chí Spros thuộc Liên minh Các Hiệp hội Tiêu dùng Quốc gia Nga (KonfOP) vừa tiến hành khảo sát 6 hãng sản xuất giày theo mùa dành cho nam loại có giá trung bình có trụ sở tại nước Nga, bao gồm Ralf Ringer (Trading House Belka, của Nga), Salamander (Salamander GmbH, của Đức), Faskino (FO, của Nga), Kaiser Monarch (MTB China Manufacturing CO, Ltd, của Trung Quốc), Tervolina (YU SHEING, của Trung Quốc), Carlo Pazolini (Carlo Pazolini Srl, của Italia), Parizhskaya Kommuna (plant Parizhskaya Kommuna, của Nga), và Belwest (Belwest, của Belarus). Kết quả cho thấy, không có nhà sản xuất nào trong số trên đáp ứng được các tiêu chuẩn mà nhà nước đề ra.
Đề án “Đẩy mạnh xuất khẩu và kiềm chế nhập siêu hàng hoá giai đoạn 2009 - 2010” của Bộ Công Thương đã xác định dệt may là một trong những ngành hàng xuất khẩu chủ lực, mặc dù ngành công nghiệp này đang hứng chịu những tác động bất lợi từ cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính toàn cầu.
Năm 2008, ngành giày dép Chilê tiếp tục xu hướng lệ thuộc vào nhập khẩu với 67.861.583 đôi trị giá 497 triệu USD. Giá giày dép nhập khẩu vào nước này đạt trung bình 4 USD hay 470 peso/ đôi.
Ngành dệt may đang vừa phải tìm cách duy trì mức tăng trưởng xuất khẩu, vừa phải cố gắng giữ việc làm cho hơn 2 triệu lao động.
Hiệp hội Dệt may Việt Nam cho biết: Trong quý I/2009, chỉ một số ít doanh nghiệp có thương hiệu và có nhiều khách hàng lớn truyền thống như: May 10, Việt Tiến, Nhà Bè…là có nhiều đơn đặt hàng.
“6 năm qua, chúng tôi phải vật lộn với khủng hoảng vận tải biển, kinh tế suy thoái, những khó khăn do căng thẳng tại Biển đông… Thực sự chúng tôi sắp hết hơi rồi!” - ông Vũ Đức Then - Phó Chủ tịch Hội vận tải biển Diêm Điền - Thái Bình bày tỏ.
Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam (VPA) cho biết khối lượng tiêu xuất khẩu tháng 7 ước đạt 9.000 tấn, với giá trị đạt 74 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu tiêu 7 tháng đầu năm 2014 lên 119.000 tấn với giá trị 862 triệu USD, tăng gần 29% về khối lượng và tăng 42% về giá trị so với cùng kỳ năm 2013.
Là "công xưởng của thế giới" lâu nay song chi phí đắt lên, cộng với những rủi ro nội tại, Trung Quốc mất dần sự hấp dẫn trong mắt nhà đầu tư quốc tế.
Từ đầu năm đến nay, nhiều doanh nghiệp ngành dệt may, sản xuất xơ, sợi nước ngoài (doanh nghiệp FDI) tìm đến xây dựng nhà máy sản xuất ở Việt Nam với quy mô vốn đầu tư lớn.
EVN lý giải nguyên nhân vẫn phải mua điện từ phía Trung Quốc sau những ý kiến trái chiều của các chuyên gia và dư luận. Để đảm bảo cung cấp điện ổn định và đảm bảo chất lượng điện năng cho các tỉnh Tây Bắc, EVN vẫn phải duy trì mua điện Trung Quốc với một sản lượng tối thiểu.
Nhu cầu sản phẩm công nghiệp có xu hướng tăng trở lại trong khi tồn kho vẫn tiếp tục ở mức cao, giá trị gia tăng thấp là những gam màu chính trong bức tranh sản xuất công nghiệp nửa đầu năm 2014.
Với những người chủ ý mua xe ga cao cấp thì yếu tố đem ra so sánh giữa những sản phẩm của các hãng khác nhau không phải là giá cả, mà là thỏa mãn nhu cầu.
Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 39/2013/QĐ-TTg ngày 27/6/2013 về việc sửa đổi, bổ sung Khoản 1 Điều 2 Quy chế hoạt động của Khu kinh tế Đình Vũ - Cát Hải, thành phố Hải Phòng ban hành kèm theo Quyết định số 69/2011/QĐ-TTg ngày 13/12/2011.
“Thông minh như thế mà tại sao làm những chuyện như thế, nói thực là tôi không hiểu”, Phó chủ Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) Nguyễn Hữu Dũng nói tại cuộc gặp gỡ báo chí sáng 5/7.
Mặc dù ảnh hưởng của cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu đã làm cho sức mua tại hầu hết các thị trường lớn của ngành dệt may như Mỹ, EU, Nhật... sụt giảm nghiêm trọng, nhưng ngành dệt may VN đã nỗ lực cạnh tranh với các nước XK để giành lấy phần thị trường đang bị co hẹp, đồng thời đẩy mạnh việc chiếm lĩnh thị trường nội địa. Ông Lê Quốc Ân - Chủ tịch Hiệp hội Dệt May VN đã có cuộc trao đổi với báo giới xung quanh nội dung này.
"Năm 2010, chúng tôi sẽ cố gắng phấn đấu tăng trưởng giá trị xuất khẩu sản phẩm gỗ từ 8-10% so với năm nay. Hiệp hội sẽ đăng ký với Bộ Công Thương kim ngạch khoảng 3 tỷ USD", Tổng thư ký Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, ông Nguyễn Tôn Quyền, nói với VnEconomy ngày hôm qua.
Chiến lược phấn đấu đến năm 2010, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ (TCMN) phải đạt 1,5 tỷ USD là có khả năng thực hiện được. Tuy nhiên, theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế để đạt được chỉ tiêu này, nhất là trong bối cảnh khó khăn như hiện nay thì thời gian tới cần có sự liên kết giữa các cơ quan quản lý nhằm kết hợp hài hòa và tối ưu hóa các nguồn lực cho phát triển ngành hàng này. Trong đó, các DN rất cần sự hỗ trợ kịp thời từ Chính phủ thông qua các chương trình bảo tồn làng nghề, khuyến công và xây dựng hạ tầng cơ sở.
Xác định rõ tầm quan trọng của ngành công nghiệp ô tô trong quá trình phát triển của đất nước, từ những năm đầu của thập niên 90, Việt Nam đã đưa ra nhiều khuyến khích nhằm thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia vào ngành công nghiệp này. Ngày 5/10/2004, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 177/2004/QĐ-TTg “Về việc phê duyệt quy hoạch phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn đến 2020”. Tuy nhiên, sau gần 5 năm triển khai thực hiện, nhiều chỉ tiêu của quy hoạch đã không thực hiện được hoặc hầu như chắc chắn không thực hiện được, nhất là những chỉ tiêu đến năm 2010. Những chỉ tiêu đến năm 2020 cũng rất khó có thể thực hiện được. Để làm rõ vấn đề này cần phải tính các nguyên nhân, thực trạng phát triển và đưa ra các giải pháp để bảo đảm thực hiện được các mục tiêu phát triển của ngành ô tô ở Việt Nam.
Trong 3 tháng qua, giá nhiều loại vật liệu xây dựng (VLXD) đã tăng liên tục. Giới kinh doanh dự báo, khả năng giá nhiều loại VLXD còn tăng. Thông tin này đã làm cho nhiều người có kế hoạch xây dựng nhà phải tính toán lại...
Việc chọn Việt Nam làm cứ điểm sản xuất để xuất khẩu ra toàn thế giới của các tập đoàn như Samsung, Canon, Intel... là tín hiệu cho thấy cơ hội để phát triển ngành công nghiệp phụ trợ của Việt Nam đã đến.
Cách tạo dựng công nghiệp ô tô dựa quá nặng vào các nhà đầu tư nước ngoài đã khiến ngành ô tô của VN phát triển khá ì ạch, tạo ra những khó khăn cho các doanh nghiệp VN khi tham gia lĩnh vực này. Tinkinhte xin đăng lại bài viết của chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan trên SGGP về vấn đề này.
Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã ảnh hưởng tới nền kinh tế cả nước nói chung và thu hút đầu tư vào các khu kinh tế (KKT) miền trung nói riêng. Nhiều nhà đầu tư đã xin giãn tiến độ triển khai dự án. Các KKT miền trung cần điều chỉnh, lựa chọn những dự án và giải pháp hợp lý để thu hút đầu tư, phát triển mô hình KKT một cách có hiệu quả.
Được đánh giá là một ngành hàng mà Việt Nam có nhiều thế mạnh, nhưng ngành gốm sứ Việt Nam đang có sự phân cực rất rõ. Những đơn vị sản xuất công nghiệp - đa phần là gốm sứ xây dựng - đã và đang phát triển mạnh mẽ, trong khi dòng gốm thủ công mỹ nghệ đang gặp khó khăn rất lớn.
Tăng trưởng của Tổng công ty cổ phần Bia - Rượu – Nước giải khát Sài Gòn (Sabeco) là 38,3%; của Tổng công ty cổ phần Bia - Rượu – Nước giải khát Hà Nội (Habeco) là 28,3% và của toàn ngành nói chung là 11,8% trong năm 2008 đã cho thấy sức hấp dẫn của những ngành hàng này, đặc biệt khi mà nhiều ngành hàng khác đang phải vật lộn để có đơn hàng.
Theo ASX Alphaliner, đội tàu của 100 hãng tàu vận tải hàng đầu trên thế giới hiện gồm khoảng 6,000 tàu đang hoạt động, trong đó có khoảng 5,000 tàu là các tàu container.