Tin kinh tế, tài chính, đầu tư, chứng khoán,tiêu dùng

Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (40): Vùng đất phía bắc - Phần 2

Sự lập nghiệp của con người

Gần như tất cả các vùng thuộc Northlands đều có dân cư phân bố thưa thớt, mật độ cao nhất thường thấy ở vùng ranh giới phía nam. Những người Mỹ bản địa, người Metis và Inuit (Eskimo) có số lượng áp đảo trên nhiều khu vực của miền Bắc Hoa Kỳ. Những người Eskimo là cư dân chiếm ưu thế trên hầu hết vùng Bắc cực. Người Mỹ bản địa sống chủ yếu trong khu vực rừng taiga. Và những người Metis chính là kết quả của những cuộc hôn phối giữa những phụ nữ người Mỹ bản địa và người da trắng trong thời kỳ định cư của người châu Âu để kinh doanh lông thú tại rừng taiga.

Sự có mặt của những người châu Âu tại Northlands đã trở thành sự kết thúc về căn bản nền văn hóa truyền thống của những người Eskimo và người Mỹ bản địa. Những nhà buôn lông thú đã sớm mua rất nhiều những bộ lông thú của người Mỹ bản địa trong rừng taiga và kết quả là hàng hóa châu Âu nhanh chóng xâm nhập vào nền kinh tế của người Mỹ bản địa. ở những nơi mà săn bắn và đánh bắt cá còn tiếp tục thì xuồng máy, súng trường và động cơ trượt tuyết thường thay thế cho thuyền độc mộc, cung tên và xe chó kéo. Nhưng hầu hết người Mỹ bản địa cũng như người Inuit cũng không còn sống nhờ vào việc săn bắn và đánh bắt cá nữa. Họ đã di chuyển một số lớn vào những thành phố và nhiều địa điểm thành thị của Northlands ngày nay có số dân bản xứ rất đông đúc.

Northlands tỏ ra ít hấp dẫn đối với phần lớn những người châu Âu đến Mỹ. ở những nơi định cư tại Northlands, tập trung ở đây là những người khai thác hoặc quân đội. Những nhà hàng hải, người bẫy thú và những nhà buôn người Pháp đẩy những chiếc thuyền của họ vượt xa khỏi những khu định cư nông nghiệp dọc theo bờ sông St. Lawrence rất sớm vào giữa thế kỷ thứ 17 và vì vậy mở rộng sự kiểm soát chính trị của người Pháp xuyên suốt khu vực Great Lakes. Công ty Hudson Bay, một công ty kinh doanh lông thú rất sớm của người Anh, đã được thành lập ngay trên những dải đất cạnh Vịnh Hudson tại Canada, sau đó mở rộng về phía tây và phía nam, và chính vì vậy mà hạn chế sự bành trướng hơn nữa của người Pháp về phía tây. Vào giữa thế kỷ thứ 18, Công ty Hudson Bay được chính phủ Anh ban cho độc quyền kinh doanh trên khu vực này đã nắm quyền kiểm soát toàn bộ vùng rừng boreal kéo dài từ Vịnh Hudson lên phía tây đến Rocky Mountains với sự mở rộng ảnh hưởng hơn nữa đối với Bắc cực. Đế chế rộng lớn của những người khai thác này chỉ kéo theo nó một số ít những khu định cư nhỏ và phân bổ rải rác.

Những người đi biển và Công ty Hudson Bay dựa chủ yếu vào những con suối và hồ trong khu vực để vận tải hàng hoá, và họ thiết lập những pháo đài nhỏ tại các điểm kiểm soát dọc theo các tuyến đường thuỷ. Tại những địa điểm mà các con suối trọng yếu hội nhập với các hồ, nơi những con suối kết thúc và việc vận tải đường bộ bắt đầu, hoặc là nơi gặp những con thác hoặc ghềnh, hàng hóa được dỡ khỏi những tàu thuyền và chuyển sang các tàu khác; những điểm này cho phép có được sự kiểm soát hữu hiệu đối với hệ thống giao thông đường thuỷ. Vị trí của những pháo đài trước đây của người Pháp ngày nay đã trở thành những trung tâm đô thị quan trọng, bao gồm Chicago, Detroit và Pittsburgh.

Các khu rừng boreal thuộc nửa phía nam của Northlands bao gồm một vùng lớn nhất các cánh rừng chưa được khai thác còn lại ở Bắc Mỹ. Cho tới gần đây, các ngành công nghiệp giấy, bột giấy và đốn gỗ mới chỉ mon men đến bên rìa cánh rừng rộng lớn này. Khu vực phía trên Great Lakes đã bị đốn với quy mô lớn trong suốt những năm cuối của thế kỷ thứ 19 và đầu thế kỷ thứ 20. Do việc tái trồng rừng không được thực hiện bao nhiêu vào thời bấy giờ và do khí hậu lạnh mà các cánh rừng boreal mọc lại rất chậm, phần nhiều những cánh rừng này cho đến tận ngày nay mới hồi phục được vẻ ngoài vốn có của mình.

Phần của khu vực Northlands phía trên Great Lakes là nguồn quặng sắt hàng đầu của nước Mỹ, cũng là nguồn quặng đồng đáng kể. Khu vực dầu lửa North Slope thuộc Alaska gần đây đã cung cấp một nguồn bổ sung lớn cho ngành cung nhiên liệu của nước Mỹ, chiếm 25% tổng sản lượng khai thác dầu trong toàn quốc.

Cũng như đối với ngành đốn gỗ, những vùng ngoại vi có thể tiếp cận của Northlands trở thành vùng khai thác mỏ quan trọng hàng đầu khu vực. Dãy Mesabi thuộc phía bắc Minnesota, một khu vực với những ngọn đồi nhấp nhô trải dài, cùng với những vùng lân cận tại Minnesota, Wisconsin, và Michigan đã tạo thành một nguồn quặng sắt chính vào cuối thế kỷ thứ 19 của nước Mỹ. Hàng tỷ tấn quặng có chất lượng cao đã vận chuyển bằng đường sắt tới các hải cảng thuộc Hồ Superior và được đưa lên những chuyến tầu thủy đặc biệt lớn để đưa tới những hải cảng thuộc Đông Bắc Ohio, ở đây chúng lại được chuyển sang tầu hỏa để tới những nhà máy chế biến sắt thép tại khu vực Pittsburgh - Youngstown. Ngày nay, hầu hết số quặng này được biến thành những thiết bị hợp kim sắt thép tại phía nam của Hồ Michigan. Những cửa đập tại Sault Sainte Maria nối liền Hồ Superior và phần còn lại của Great Lakes trở thành nơi đông đúc nhất trên thế giới, phần lớn do kết quả của việc vận chuyển khoáng chất này.

Phần lớn các quặng sắt có chất lượng cao đều xuất phát từ khu khai thác mỏ của Hồ Superior. Người ta cũng đã chú ý tới một loại quặng có chất lượng thấp hơn được gọi là taconite, cũng được tìm thấy với khối lượng lớn tại khu khai mỏ nêu trên. Hàm lượng sắt của quặng taconite thấp, chỉ khoảng 30% so với tỷ lệ có lẽ gấp đôi của những loại quặng chất lượng hơn, chính vì vậy mà việc vận chuyển loại quặng này tới Great Lakes để xử lý bị coi là quá đắt đỏ. Vì thế, quặng taconite được nghiền thành một thứ bột mịn, phần lớn đá bị loại bỏ và những khoáng chất thu được được ép thành những miếng nhỏ với hàm lượng sắt cao hơn rất nhiều. Việc này khiến cho chi phí vận chuyển giảm đi đáng kể.

Chi phí quá cao của việc vận chuyển những loại quặng chất lượng thấp là yếu tố chủ yếu trong việc lựa chọn đặt các cơ sở luyện kim gần với nguồn cung cấp hơn là gần với thị trường. Ví dụ như đồng, với có hàm lượng hiếm khi lên tới 5% mà thường là ít hơn 1% trong quặng đồng, gần như là đều được tinh lọc ngay tại mỏ. Hoạt động luyện và tinh chế khoáng chất là hình thức chủ yếu của hoạt động chế tạo tại Northlands, và những ống khói lớn của các lò luyện kim chính là dấu hiệu chủ yếu trên bầu trời của những thành phố lớn hơn trong khu vực.

Hoa Kỳ đã chuyển hướng sang việc nhanh chóng phát triển các mỏ dầu lửa tại North Slope thuộc Alaska. Một số nhà sản xuất dầu lửa đã chi trả hơn 1 tỷ đô-la Mỹ chỉ để được quyền tìm kiếm dầu lửa tại khu vực này.

Vận chuyển dầu thô là một vấn đề chủ yếu liên quan đến việc mở cửa các mỏ ở North Slope. Một đường ống trị giá 8 tỷ đô-la Mỹ xuyên qua trung tâm Alaska tới cảng Valdez trên Thái Bình Dương cuối cùng đã được xây dựng và khai trương vào năm 1977.

Mật độ dân cư thưa thớt và đặc biệt là sự thiếu vắng những thành phố của Northlands đồng nghĩa với việc cho dù các tuyến vận tải có được xây dựng với chi phí thấp thì chúng cũng chỉ được sử dụng rất ít. Chỉ có đường cao tốc Alaska và một số nhánh của nó toả khắp vùng cận biên phía tây của khu vực.

Tuy nhiên, tại phần lớn khu vực này các máy bay hạng nhẹ và các phi công là đường dây liên kết vận chuyển duy nhất phổ biến. Con số xấp xỉ hai chục phương tiện vận tải hoạt động tạo thành một mật độ khá dày những tuyến vận chuyển theo thời biểu ở vùng đất phía bắc này.

Mặc dù tổng số dân cư trong vùng không lớn song đa số người dân ở Northlands sống tại các làng, thị trấn và các thành phố. Ngành nông nghiệp, sự hỗ trợ chủ yếu cho việc định cư rải rác ở những nơi khác, chỉ quan trọng ở tầm địa phương. Gần như tất cả những thành phố lớn đều bị chi phối bởi một hoạt động kinh tế chủ yếu duy nhất và đều tập trung về phía nam, ví dụ, như Duluth, Minnesota, là một trung tâm vận tải. Hầu hết những thị trấn nhỏ hơn nằm trong khu vực rừng boreal đều giống nhau ở chỗ chỉ có một chức năng.

Xa về phía bắc, sự phát triển của cộng đồng người châu Âu đã tạo thành một số ít khu định cư vĩnh viễn. Nhiều người trong khu vực này làm việc, với tư cách này hoặc tư cách khác, cho Chính phủ Hoa Kỳ hoặc trong ngành khai khoáng. Những cộng đồng phương bắc xa xôi bị cách ly một cách tuyệt đối, thường dân số là nam giới chiếm số đông và lực lượng lao động thường giành những khoảng thời gian nhiều tuần để về thăm gia đình hoặc là để vui chơi giải trí. Cũng như các cộng đồng tại tất cả những nơi mà chủ yếu tập trung vào khai thác khoáng sản, dân cư ở đây có tuổi thọ thấp do rơi vào tình trạng kiệt sức.

 

(Nguồn: Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam)

  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (31): Vùng biên giới Tây Nam - Phần 1
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (32): Vùng biên giới Tây Nam - Phần 2
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (33): California - Phần 1
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (34): California - Phần 2
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (35): California - Phần 3
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (36): Vùng bờ biển Bắc Thái Bình Dương - Phần 1
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (37): Vùng bờ biển Bắc Thái Bình Dương - Phần 2
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (38): Vùng bờ biển Bắc Thái Bình Dương - Phần 3
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (39): Vùng đất phía bắc - Phần 1
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (40): Vùng đất phía bắc - Phần 2
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (41): Hawaii - Phần 1
  • Sơ lược địa lý Hoa Kỳ (42): Hawaii - Phần 2