Một lý do khác để kiềm chế Trung Quốc, ít nhất về trung hạn, là sự điều chỉnh bên trong mà nước này phải đối mặt. Khoảng cách trong xã hội Trung Quốc giữa các vùng duyên hải phát triển và khu vực phía tây kém phát triển đã tạo nên mục tiêu của Hồ Cẩm Đào về một "xã hội hòa hợp" vừa hấp dẫn vừa khó nắm bắt. Những thay đổi văn hóa càng làm cho thách thức này tồi tệ thêm.
Những thập niên tới đây sẽ chứng kiến, lần đầu tiên, tác động toàn diện của những gia đình một con lên xã hội người lớn ở Trung Quốc. Điều này chắc chắn sẽ làm thay đổi các mô hình văn hóa ở một xã hội mà trong đó, các gia đình lớn về truyền thống vẫn chăm sóc người cao tuổi và người tàn tật. Khi bốn ông bố bà mẹ giành nhau sự quan tâm của một đứa con và truyền cho đứa con đó những khát vọng trước đó đã lan qua nhiều thế hệ con cái thì một kiểu mẫu mới về thành tích và rất nhiều kỳ vọng, mà có lẽ không thể thực hiện được, có thể phát sinh. Thách thức chủ yếu sẽ là tìm ra cách để giải quyết một xã hội đã được cách mạng hóa bằng cách thay đổi các điều kiện kinh tế, sự phát triển nhanh chóng và chưa từng có tiền lệ của các công nghệ liên lạc, một nền kinh tế toàn cầu mong manh, và sự di trú của hàng trăm triệu người từ nông thôn tới thành phố ở Trung Quốc. Mô hình chính phủ nổi lên nhiều khả năng sẽ là một tổng hợp những ý tưởng hiện đại với những khái niệm văn hóa và chính trị Trung Quốc truyền thống, và công cuộc tìm kiếm cho sự tổng hợp đó sẽ cung cấp một vở kịch (drama) phát triển liên tục của Trung Quốc. Một lối tiếp cận hợp tác thách thức các định kiến ở cả hai bên. Mỹ có vài tiền lệ trong trải nghiệm quốc gia liên quan tới một nước có thể so sánh về kích cỡ, sự tự tin, thành tựu kinh tế, và tầm cỡ quốc tế, với một hệ thống chính trị và một nền văn hóa khác biệt. Lịch sử cũng không mang lại cho Trung Quốc tiền lệ về cách thức liên kết với một cường quốc cùng phe có sự hiện diện lâu dài ở châu Á, một tầm nhìn gồm các ý tưởng chung không khớp với các quan niệm của Trung Quốc, và các liên minh với một số nước láng giềng của Trung Quốc. Trước Mỹ, tất cả các nước thiết lập một vị thế như vậy đều đã làm điều đó như một khúc dạo đầu cho một nỗ lực nhằm chế ngự Trung Quốc. Lối tiếp cận chiến lược đơn giản nhất là quyết tâm áp đảo các kẻ thù tiềm năng bằng các trang thiết bị và các nguồn lực tốt hơn. Nhưng trong thế giới ngày nay, điều này là không khả thi. Trung Quốc và Mỹ chắc chắn sẽ tiếp tục như những thực thể chịu đựng lẫn nhau. Không bên nào có thể giao phó an ninh của mình cho bên kia - từ lâu, không một cường quốc nào làm thế - và mỗi bên sẽ tiếp tục theo đuổi các lợi ích của riêng mình, đôi khi tương đối không có lợi cho phía kia. Nhưng cả hai có trách nhiệm phải tính đến những cơn ác mộng của nhau, và cả hai sẽ làm tốt để nhận ra rằng, luận điệu của họ, cũng như các chính sách thực tế của họ, có thể khiến phía kia nghi ngờ. Các nước châu Á khác sẽ khẳng định họ có các đặc quyền để phát triển các năng lực của mình vì các lý do quốc gia, không phải là một phần của một cuộc cạnh tranh giữa các cường quốc bên ngoài. Họ sẽ không muốn đặt bản thân vào một trật tự chư hầu trở lại. Họ cũng không coi mình là các yếu tố trong một chính sách ngăn chặn của Mỹ hay là một dự án của Mỹ nhằm làm thay đổi các thể chế bên trong Trung Quốc. Họ khao khát các mối quan hệ tốt đẹp với cả Trung Quốc và Mỹ, và sẽ chống lại bất kỳ áp lực nào đòi chọn lựa giữa hai bên. Việc Trung Quốc sẽ có một ảnh hưởng lớn ở những khu vực xung quanh nước này là vốn có về địa lý, về các giá trị và lịch sử của nước này. Tuy nhiên, các giới hạn của ảnh hưởng đó sẽ được định hình bởi hoàn cảnh và các quyết định chính sách. Những điều này sẽ quyết định liệu một cuộc tìm kiếm không tránh khỏi về ảnh hưởng có biến thành động lực để phủ nhận hoặc loại trừ các nguồn sức mạnh độc lập khác?
Tất cả những diễn biến đó sẽ càng làm phức tạp thêm những thách thức của sự chuyển giao chính quyền ở Trung Quốc bắt đầu trong năm 2012, với các chức vụ Chủ tịch, Phó Chủ tịch, rất nhiều vị trí trong Bộ Chính trị Trung Quốc, Hội đồng Nhà nước và Quân ủy Trung ương; cùng hàng nghìn vị trí then chốt cấp quốc gia và cấp tỉnh khác sẽ được bổ nhiệm cho người mới. Ban lãnh đạo mới, phần lớn, sẽ bao gồm các thành viên của thế hệ thứ nhất trong vòng một thế kỷ và một nửa số đó đều hưởng thụ cuộc sống ở một đất nước hòa bình.
Những chuyển đổi về xã hội và chính trị này sẽ kéo theo sự quan tâm và hy vọng ở Mỹ. Sự can thiệp trực tiếp của Mỹ sẽ không phải là điều khôn ngoan hay hữu ích. Mỹ, như nên thế, sẽ tiếp tục nêu rõ các quan điểm của mình về các vấn đề nhân quyền hoặc các vụ việc cá nhân. Và cách hành xử hàng ngày của Mỹ sẽ thể hiện ưu tiên quốc gia của nước này về các quy tắc dân chủ. Nhưng một dự kiến mang tính hệ thống nhằm chuyển đổi các thể chế ở Trung Quốc bằng áp lực ngoại giao và cấm vận kinh tế nhiều khả năng sẽ phản tác dụng và cô lập chính những người tự do mà nước này định giúp đỡ. Ở Trung Quốc, điều đó sẽ bị đa số nhìn nhận thông qua lăng kính của chủ nghĩa dân tộc, gợi nhớ về những thời kỳ nước ngoài can thiệp trước đó.
Những gì tình hình này đòi hỏi không phải là một sự từ bỏ các giá trị Mỹ mà là một sự phân biệt giữa điều có thể thực hiện được và điều chắc chắn. Quan hệ Trung - Mỹ không nên bị xem là một trò chơi tổng bằng không, hay sự nổi lên của một Trung Quốc thịnh vượng và hùng cường không thể bị coi là một sự thất bại chiến lược của Mỹ.
Lo sợ chiến lược lớn nhất của Trung Quốc là một cường quốc hoặc nhiều cường quốc bên ngoài sẽ tiến hành các triển khai quân sự xung quanh Trung Quốc, đủ khả năng xâm phạm lãnh thổ nước này hoặc can thiệp vào các thể chế bên trong nước này. Khi Trung Quốc thấy họ đối mặt với một mối đe dọa như vậy trong quá khứ, họ sẽ tiến tới chiến tranh thay vì mạo hiểm kết quả của những gì họ coi là các xu hướng tập họp - ở Triều Tiên năm 1950, chống lại Ấn Độ năm 1962, dọc đường biên giới phía bắc giáp với Liên Xô năm 1969, và chống Việt nam năm 1979.
Lo ngại của Mỹ, đôi khi chỉ được biểu lộ một cách gián tiếp, là bị đẩy ra khỏi châu Á bởi một khối ngăn chặn. Mỹ đã tiến hành một cuộc chiến thế giới chống lại Đức và Nhật Bản để ngăn một kết quả như vậy và thực thi một số chính sách ngoại giao Chiến tranh Lạnh mạnh mẽ nhất dưới thời các chính quyền của cả hai đảng chống lại Liên Xô. Ở cả hai, cần phải nhận ra rằng các nỗ lực lớn chung giữa Mỹ và Trung Quốc được hướng tới chống lại mối đe dọa dễ nhận thấy về quyền bá chủ.
Liệu mối lo bá quyền và cơn ác mộng về sự bao vây quân sự có thể được giải tỏa? Có thể tìm ra một khoảng trống, trong đó cả hai bên có thể đạt được các mục tiêu sau cùng của mình mà không quân sự hóa các chiến lược. Đối với các nước lớn có năng lực toàn cầu và bất đồng thì đâu là bờ mép giữa xung đột và từ bỏ?
Trong gần 2 thế hệ, chiến lược của Mỹ dựa vào phòng thủ khu vực cục bộ của các lực lượng mặt đất Mỹ - chủ yếu để tránh những hậu quả thảm khốc của một cuộc chiến tranh hạt nhân nói chung. Trong những thập niên gần đây, ý kiến quốc hội và công luận đã thúc ép một hồi kết cho những cam kết như vậy ở Việt Nam, Iraq và Afghanistan. Giờ đây, các cân nhắc về tài chính càng làm hạn chế tầm cỡ của một lối tiếp cận như vậy. Chiến lược của Mỹ đã được đổi hướng từ bảo vệ lãnh thổ sang đe dọa trừng phạt không thể chấp nhận được chống lại những nước gây hấn tiềm tàng. Điều này đòi hỏi các lực lượng phải đủ mạnh để can thiệp nhanh và vươn khắp toàn cầu, không chỉ các căn cứ bao quanh biên giới Trung Quốc. Những gì Washington không được phép làm là kết hợp một chính sách quốc phòng dựa trên các hạn chế ngân sách với một kiểu ngoại giao dựa trên các mục đích ý thức hệ vô tận.
Vì ảnh hưởng của Trung Quốc ở các nước xung quanh có thể làm dấy lên lo ngại về sự thống trị, các nỗ lực nhằm theo đuổi các lợi ích quốc gia truyền thống của Mỹ có thể được hiểu như một dạng bao vây quân sự. Cả hai bên phải hiểu rõ những sắc thái mà bởi chúng, các các đường lối truyền thống và dường như hợp lý có thể khơi dậy những lo ngại sâu sắc nhất về nhau. Họ sẽ tìm kiếm nhau để định rõ phạm vi mà trong đó sự cạnh tranh hòa bình của họ được hạn chế. Nếu điều đó được giải quyết một cách khôn ngoan, cả sự đối dầu lẫn thống trị quân sự đều có thể tránh được; nếu không, leo thang căng thẳng là điều không thể tránh khỏi. Nhiệm vụ của ngoại giao là phải khám phá khoảng trống này, để mở rộng nó nếu có thể, và để ngăn chặn mối quan hệ khỏi bị lấn át bởi những đòi hỏi ở trong nước và về chiến thuật.
Trật tự thế giới hiện nay được xây dựng chủ yếu không cần đến sự tham gia của Trung Quốc, và do đó, Trung Quốc đôi khi cảm thấy ít bị giới hạn bởi các quy định của nó hơn so với những nước khác.
Chừng nào trật tự đó không phù hợp với các ưu tiên của Trung Quốc, Bắc Kinh sẽ lập ra các thỏa thuận thay thế, chẳng hạn như các kênh tiền tệ riêng đang được thiết lập với Brazil, Nhật Bản và các nước khác. Nếu mô hình này trở thành thường lệ và lan vào nhiều lĩnh vực hoạt động, cạnh tranh các trật tự thế giới có thể nổ ra. Thiếu vắng các mục tiêu chung kết hợp với các quy tắc kiềm chế đã được nhất trí, sự kình địch được thể chế hóa nhiều khả năng sẽ leo thang vượt ra khỏi những tính toán và ý định của những người ủng hộ nó. Trong một thời đại mà các khả năng tấn công và công nghệ xâm nhập phát triển nhanh chóng, hình phạt của những tiến trình như vậy có thể rất mạnh mẽ và có lẽ là không thể thay đổi.
Quản lý khủng hoảng sẽ không đủ để duy trì một mối quan hệ mang tính toàn cầu đến thế và bị vây quanh bởi quá nhiều áp lực khác nhau cả ở bên trong và giữa hai nước. Đó là lý do tôi ủng hộ khái niệm về một Cộng đồng Thái Bình Dương và bày tỏ hy vọng rằng Trung Quốc và Mỹ có thể tạo ra một ý nghĩa mục tiêu chung ở ít nhất một số vấn đề quan tâm chung. Nhưng mục tiêu của một cộng đồng như vậy không thể đạt được nếu mỗi bên quan niệm sự tham gia đó như một cách thức hiệu quả hơn để đánh bại hoặc hủy hoại bên còn lại. Cả Trung Quốc và Mỹ đều không thể bị thách thức một cách có hệ thống mà không có sự chú ý, và nếu một thách thức như vậy được nhận ra, nó sẽ bị chống cự. Cả hai cần phải cam kết hợp tác chân thành và tìm ra cách để tiếp xúc, gắn các tầm nhìn của mình với nhau và với thế giới.
Một số bước đi thăm dò theo hướng đó đã diễn ra. Chẳng hạn, Mỹ đã cùng với một số nước khác bắt đầu đàm phán về Quan hệ đối tác xuyên-Thái Bình Dương (TPP), một hiệp ước thương mại tự do kết nối Mỹ với châu Á. Một sự ràng buộc như vậy có thể là một bước hướng tới một Cộng đồng Thái Bình Dương, bởi vì nó sẽ hạ thấp các hàng rào thương mại giữa các nền kinh tế năng suất nhất, năng động nhất và giàu tài nguyên nhất, đồng thời liên kết hai bờ đại dương vào các dự án chung.
Obama đã mời Trung Quốc gia nhập TPP. Tuy nhiên, các điều khoản gia nhập như được trình bày bởi giới bình luận và dẫn giải Mỹ đôi lúc có vẻ như đòi hỏi những thay đổi nền tảng trong cấu trúc nội tại của Trung Quốc. Ở mức độ nhất định, TPP có thể bị những người ở Bắc Kinh coi là một phần của một chiến lược nhằm cô lập Trung Quốc. Về phần mình, Trung Quốc đã thúc đẩy những thỏa thuận thay thế tương tự. Nước này đã đàm phán một hiệp định thương mại với Hiệp hội Các nước Đông Nam Á và bắt đầu một hiệp định thương mại Đông Bắc Á với Nhật Bản và Hàn Quốc.
Những cân nhắc chính trị quan trọng trong nước liên quan đến tất cả các bên. Nhưng nếu Trung Quốc và Mỹ hướng tới coi các nỗ lực hiệp định - thương mại của bên kia là yếu tố trong một chiến lược cô lập, khu vực châu Á - Thái Bình Dương có thể chuyển thành các khối quyền lực cạnh tranh kình địch nhau. Trớ trêu thay, chính điều này sẽ là một thách thức đặc biệt nếu Trung Quốc đáp ứng các kêu gọi thường xuyên của Mỹ nhằm thay đổi từ một nền kinh tế xuất khẩu là chủ đạo sang một nền kinh tế tiêu dùng là động lực, như kế hoạch 5 năm gần đây nhất của nước này dự tính. Một diễn biến như vậy có thể làm giảm lợi ích của Trung Quốc ở Mỹ với tư cách một thị trường xuất khẩu, ngay cả khi nó khuyến khích các nước châu Á khác tiếp tục hướng kinh tế của họ về phía Trung Quốc.
Quyết định chủ chốt mà cả Bắc Kinh và Washington phải đối mặt là liệu có di chuyển hướng tới một nỗ lực chân thành về hợp tác hay rơi vào một phiên bản mới của các mô hình kịch địch quốc tế mang tính lịch sử. Cả hai nước đã chọn luận điệu cộng đồng. Họ thậm chí đã thiết lập một diễn đàn cấp cao cho nó, Đối thoại Chiến lược và Kinh tế, mà hai bên gặp nhau hai lần mỗi năm. Nó cũng hữu ích cho nhiều vấn đề trước mắt, nhưng vẫn ở rất thấp trong nhiệm vụ sau cùng là tạo ra một trật tự chính trị và kinh tế mang tính toàn cầu thực sự. Và nếu một trật tự toàn cầu không xuất hiện trong lĩnh vực kinh tế, các rào cản tiến bộ ở các vấn đề thiên về xúc cảm và ít có lợi cho hai bên hơn, chẳng hạn như lãnh thổ và an ninh, có thể tăng nhanh không kiềm chế được.
Các nguy cơ của luận điệu
Khi họ theo đuổi tiến trình này, cả hai bên cần phải nhận ra tác động của luận điệu khoa trương về nhận thức và tính toán. Các lãnh đạo Mỹ thỉnh thoảng lại dồn dập tố cáo Trung Quốc, trong đó có các đề nghị cụ thể về các chính sách địch thủ, như những việc cần thiết về chính trị trong nước. Điều này xảy ra ngay cả - có lẽ là đặc biệt - khi một chính sách ôn hòa là ý định sau cùng. Vấn đề không phải là những than phiền cụ thể, vốn cần được giải quyết xứng đáng với vấn đề, mà là những cuộc công kích nhằm vào các động cơ cơ bản của chính sách Trung Quốc, chẳng hạn như tuyên bố Trung Quốc là một kẻ thù chiến lược. Mục đích của các cuộc tấn công này là để đòi hỏi liệu các nhu cầu trong nước đòi xác nhận sự thù địch sớm hay muộn có cần đến các hành động thù địch hay không. Do vậy, đe dọa các tuyên bố của Trung Quốc, trong đó có các tuyên bố trên báo chí bán chính thức, nhiều khả năng sẽ bị hiểu theo kiểu các hành động mà chúng ngụ ý, bất kể sức ép trong nước hay ý định nào tạo ra chúng.
Cuộc tranh luận của người Mỹ, ở cả hai phe chính trị, thường mô tả Trung Quốc là một "cường quốc đang lên" cần phải "trưởng thành" và học cách thực hiện trách nhiệm trên vũ đài quốc tế. Tuy nhiên, Trung Quốc không coi mình là một cường quốc đang lên mà là một cường quốc đang trở lại, vượt trội trong khu vực đã hai thiên niên kỷ qua và đang tạm thời bị thay thế bởi những kẻ bóc lột thuộc địa lợi dụng xung đột và đổ nát bên trong Trung Quốc. Nước này coi viễn cảnh của một Trung Quốc mạnh mẽ đang sử dụng ảnh hưởng trong các vấn đề kinh tế, văn hóa, chính trị và quân sự không phải là một thách thức trái tự nhiên đối với trật tự thế giới, mà là như một sự trở lại trạng thái bình thường. Người Mỹ không cần đồng ý với mọi khía cạnh của bài phân tích Trung Quốc này cũng có thể hiểu rằng lên lớp một đất nước có lịch sử nhiều nghìn năm về sự cần thiết phải "lớn lên" và hành xử "có trách nhiệm" có thể gây khó chịu vô ích.
Về phía Trung Quốc, các tuyên bố ở cấp độ chính phủ và không chính thức rằng nước này dự định "hồi sinh đất nước Trung Quốc" về vị thế nổi tiếng truyền thống của mình mang nhiều hàm ý khác nhau cả ở bên trong và bên ngoài đất nước. Một cách công bằng, Trung Quốc tự hào chính đáng về những bước tiến mới đây của nước này trong việc khôi phục ý thức về mục đích quốc gia tiếp sau những gì họ nhìn nhận là một thế kỷ nhục nhã. Tuy nhiên, vài nước khác ở châu Á đang hoài niệm về một thời kỳ mà họ nằm trong sự cai trị của bá quyền Trung Quốc. Kỳ cựu trong các cuộc đấu tranh chống thực dân, hầu hết các nước châu Á cực kỳ nhạy cảm trong việc duy trì độc lập và tự do hành động của mình trước bất kỳ một cường quốc bên ngoài nào, dù là phương Tây hay châu Á. Họ sẽ nỗ lực tham gia vào càng nhiều lĩnh vực chồng lấn về hoạt động kinh tế và chính trị càng tốt; họ đề nghị một vai trò của Mỹ trong khu vực nhưng tìm kiếm trạng thái cân bằng, chứ không phải một cuộc viễn chinh hay đối đầu.
Sự trỗi dậy của Trung Quốc là kết quả của một sức mạnh quân sự ngày càng tăng chứ không phải là vị thế cạnh tranh của Mỹ ngày càng giảm, bị dồn ép bởi những yếu tố như cơ sở hạ tầng cũ kỹ, sự quan tâm không đủ đến nghiên cứu và phát triển, và một quá trình dường như rối loạn chức năng của chính phủ. Mỹ cần phải giải quyết những vấn đề này một cách khéo léo và quyết tâm thay vì đổ lỗi cho một nước được coi là đối thủ. Nước này phải thận trọng không lặp lại trong chính sách Trung Quốc của mình kiểu các xung đột được công chúng ủng hộ rộng rãi và các mục tiêu rộng khắp nhưng lại kết thúc khi tiến trình chính trị của Mỹ bám theo một chiến lược giải thoát mà chung quy là một sự từ bỏ, nếu không muốn nói là đảo ngược hoàn toàn, các mục tiêu đã nêu của đất nước.
Trung Quốc có thể tìm được sự yên tâm trong thành tích chịu đựng của nước này và trên thực tế, không chính quyền nào của Mỹ muốn thay đổi thực thể Trung Quốc như một trong những nước quan trọng, một trong những nền kinh tế và nền văn minh của thế giới. Người Mỹ cần làm tốt để nhớ rằng ngay cả khi GDP của Trung Quốc bằng với của Mỹ, nó vẫn cần được phân bổ cho một lượng dân số nhiều gấp 4 lần của Mỹ, lại đang già hóa và ràng buộc trong rất nhiều những biến đổi nội tại phức tạp do sự tăng trưởng và đô thị hóa của Trung Quốc gây ra. Hệ quả thực sự là rất nhiều năng lượng của Trung Quốc vẫn được cần đến cho các nhu cầu trong nước.
Cả hai bên nên cởi mở trong quan niệm về các hoạt động của nhau như là một phần bình thường của đời sống quốc tế, và chứ không phải là một lý do báo nguy. Xu hướng không thể tránh khỏi của việc tác động lẫn nhau không nên bị đánh đồng với một động lực nhằm kiềm chế hay chi phối, cũng như hai bên có thể duy trì sự khác biệt và xác định các hành động của mình cho phù hợp. Trung Quốc và Mỹ sẽ không cần thiết phải vượt quá hoạt động bình thường của một cường quốc địch thủ. Nhưng họ có nghĩa vụ với nhau, và với cả thế giới, phải tạo một nỗ lực để làm như vậy.
Thanh Hảo dịch theo Foreign Affairs // Nguồn: Tuần Việt Nam
Chuyển nhượng, cho thuê hoặc hợp tác phát triển nội dung trên các tên miền:
Quý vị quan tâm xin liên hệ: tieulong@6vnn.com