Tin kinh tế, tài chính, đầu tư, chứng khoán,tiêu dùng

Các thị trường mới nổi phải làm gì để trở nên giàu có?

Với mốt số quốc gia, nếu muốn tránh được cái bẫy thu nhập trung bình, cần phát triển thị trường nội địa.

 Với vận tốc tối đa 430km/h, chiếc tàu đệm từ ở Thượng Hải là một mắt xích quan trọng trong hệ thống giao thông vận tải của thành phố. Trên một trục đường bộ dài 30km từ Đường Longyang đến Sân bay quốc tế Phố Đông ở ngay bên cạnh, những chiếc xe hơi chạy hết tốc độ nhưng vẫn bị bỏ lại đằng sau, đã cho thấy con tàu hiện đại trên di chuyển nhanh đến mức nào. Đối với những hành khách thích cảm giác mạnh, một chiếc công-tơ-mét kỹ thuật số trong từng toa xe hiển thị tốc độ của tàu đến vận tốc tối đa trước khi lại giảm xuống khi đoàn tàu vào ga.

Tàu đệm từ ở Thượng Hải là một biểu tượng cho sự hiện đại của Trung Quốc - dù công nghệ này được phát triển từ những năm 1960 tại Anh và toàn bộ trang thiết bị do hãng Siemens, một công ty của Đức, sản xuất. Nhưng dự án này lại không sinh lời. Vào một buổi chiều giữa mùa hè, chuyến tàu trên trống gần như một nửa số ghế, và đa số hành khách là khách du lịch chỉ đi tàu "cho biết". Bởi vì ngoài tốc độ ấn tượng của nó, tuyến tàu đệm từ này không phải là trục đường chính đến và đi từ sân bay. Vé tàu cũng quá đắt đối với mọi người, trừ các doanh nhân giàu có và du khách nước ngoài, trong khi những vị khách này lại thấy đây là tuyến đường không phù hợp. Bởi sau khi dừng chân ở đường Longyang, họ còn cả một quãng đường dài nữa mới tới quận tài chính và những khách sạn tốt nhất.

Đối với những người hoài nghi về sự kỳ diệu kinh tế của Trung Quốc, câu chuyện Thượng Hải trên là một ví dụ cho thấy các ngân hàng nhà nước đầu tư vốn không hiệu quả như thế nào. Trung Quốc đầu tư khoảng 50% GDP, nhiều hơn gấp đôi mức trung bình ở các nước giàu. Các dự án vốn lớn của các doanh nghiệp nhà nước, như đường sắt, dễ dàng được rót vốn, trong khi lãi suất huy động vốn của ngân hàng lại rất cao. Một hệ thống tạo điều kiện cho một số người đi vay bất chấp người gửi tiết kiệm thông thường hoặc các cổ đông bình thường của ngân hàng, sẽ dẫn đến những dự án tồi và làm gia tăng nợ xấu, gây đầu cơ sụt giá. Vụ va chạm giữa hai đoàn tàu cao tốc ở Trung Quốc hôm 23/7 vừa qua, làm 40 người thiệt mạng và 191 người bị thương, dường như đã khẳng định lại những nghi ngại này.

Phải nhảy cóc

Nhưng có một cách hiểu tích cực hơn về tính "tham" dự án tốn kém của Trung Quốc như tàu cao tốc. Giới lãnh đạo nước này hẳn biết rằng khi một nền kinh tế phát triển, nó không thể dựa mãi vào việc sao chép máy móc và bí quyết sản xuất của các nước giàu. Khi một quốc gia càng giàu có hơn thì công nghệ của họ càng gần tới độ sử dụng tốt nhất và càng ít công nhân làm những công việc năng suất thấp như nghề nông. Khi những thành quả dễ dàng đạt được đã hết tác dụng thì nền kinh tế vận hành chậm lại hoặc bị mắc kẹt. Một cách để thoát khỏi "cái bẫy thu nhập trung bình" này là cố gắng nhảy cóc qua các công nghệ hàng đầu.

Mức tăng trưởng hiện nay của Trung Quốc rất ấn tượng, đến mức người ta tự hỏi liệu đà tăng trưởng này còn có thể tiếp tục hay không. Nước này sẽ thấy khó tiếp tục tăng trưởng nhanh khi họ trở nên giàu hơn, giống như Ấn Độ và Brazil. Cả ba thị trường lớn mới nổi này cần tìm cách để tránh tình trạng lạm phát từng hành hạ các nước đang phát triển, đồng thời phải cân bằng giữa đầu tư và tiêu dùng, giữa nhu cầu trong và ngoài nước.

Sự phụ thuộc của Trung Quốc vào xuất khẩu và những khoản đầu tư hỗ trợ các ngành công nghiệp xuất khẩu đã đạt đến độ tới hạn của nó. Nước này hiện cần thay đổi cán cân sang nhu cầu nội địa, đòi hỏi vốn đổ trực tiếp vào các doanh nghiệp nhỏ hơn phục vụ người tiêu dùng. Brazil gần như là một tấm gương cho Trung Quốc. Họ có một nền kinh tế tiêu dùng phát triển. Mức lãi suất cao ở Brazil bị trung hòa bởi số tiền đầu tư cần để nâng cao năng suất. Giống như Brazil, Ấn Độ thiên về tăng trưởng quá nóng và bị thâm hụt cán cân thanh toán, dù rằng nhờ vào tỷ lệ đầu tư cao nên năng xuất của họ gần bằng của Trung Quốc.

Các vấn đề khi quá trình phát triển đạt gần đến độ chín sẽ sớm ảnh hưởng tới Trung Quốc và các nước khác, theo nghiên cứu của Barry Eichengreen (thuộc Đại học California), Berkeley, Donghyun Park (Ngân hàng Phát triển châu Á) và Kwanho Shin (Đại học Hàn Quốc). Các chuyên gia này nghiên cứu các nước có thu nhập ở mức trung bình (thu nhập bình quân đầu người đạt tối thiểu 10.000 USD, theo giá cả năm 2005) và đạt tăng trưởng GDP trung bình ở mức ít nhất 3,5% trong nhiều năm suốt nửa thế kỷ qua, nhưng tỷ lệ tăng trưởng lại bất ngờ sụt giảm ít nhất 2%.

Nghiên cứu đã khẳng định lại linh cảm của họ, rằng sự mất đà này chủ yếu do nền kinh tế đã đến độ chín muồi, hơn là vì thiếu lao động hay suy giảm đầu tư. Lực lượng lao động tăng tương tự như nhau trước vào sau suy thoái, và chất lượng lao động đã được cải thiện: thực vậy, lao động trung bình có trình độ thậm chí còn cao hơn sau khi kinh tế suy thoái. Mức tăng vốn vật chất (nhà xưởng, văn phòng, đường sá, máy móc...) giảm dần, nhưng con số này chỉ chiếm một phần nhỏ trong sự sụt giảm tăng trưởng GDP.

Thay vào đó, hầu hết tình trạng suy thoái trên là do suy giảm "năng suất tổng thể" - hiệu quả mà người công nhân và vốn được sử dụng.  Eichengreen và các đồng nghiệp viết: "Tăng trưởng chậm lại, nói một cách ngắn gọn, chính là sự suy giảm mức tăng năng suất". Điều này xảy đến sau khi nền kinh tế vượt qua giai đoạn phát triển kinh tế "dễ dàng". Chuyển các nông dân thất nghiệp đến đô thị làm việc trong các nhà máy và văn phòng với các trang thiết bị nhập khẩu làm tăng năng suất. Nhưng khi những người rảnh rỗi ở nông thôn được sử dụng, sẽ không đạt được những thành quả dễ dàng nói trên nữa.

Theo ba chuyên gia kinh tế trên, dạng suy thoái này hầu như xảy ra khi thu nhập trung bình đạt 16.000 USD theo giá cả năm 2005; khi thu nhập trên đầu người tăng 58% so với thu nhập bình quân tại nền kinh tế hàng đầu thế giới; hoặc khi tỷ lệ tuyển dụng trong ngành chế biến chiếm 23%. Ba cái mốc này sẽ không nhất thiết đạt được cùng một lúc. Trung Quốc có thể đã đạt mục tiêu về sản xuất chế biến và nếu nền kinh tế nước này giữ một mức tăng trưởng khoảng 9%, thì mốc thu nhập bình quân sẽ sớm đạt tới mức tương xứng. Nhưng mốc thu nhập tương đối vẫn còn xa. Theo IMF, năm 2010, thu nhập bình quân đầu người ở Trung Quốc chỉ bằng 16% của Mỹ.

Nghiên cứu chỉ ra rằng các nền kinh tế như Trung Quốc, với đồng tiền được định giá thấp và mức chi tiêu tiêu dùng thấp, sẽ phải chứng kiến suy giảm tăng trưởng như trên. Tuy nhiên, đây không phải là quy luật không thể đảo ngược. Thậm chí, dường như chắc chắn một đợt suy thoái sẽ theo sau một thời kỳ phát triển dễ dàng. Vấn đề là liệu Trung Quốc có thể giảm nhẹ điều này bằng cách thay đổi mô hình tăng trưởng của mình hay không.

Mô hình cũ

Mô hình này đã được áp dụng thành công ở nhiều nước châu Á khác. Nó dựa vào xuất khẩu, nên lượng cầu chủ yếu đến từ bên ngoài. Để đạt được điều này, Trung Quốc đã huy động kho nhân công giá rẻ khổng lồ của mình, thêm vào đó là một kho dự trữ vốn vật chất đang phát triển nhanh chóng, mà họ chủ yếu nhập khẩu nhưng bằng tiền tiết kiệm của chính nước mình. Vì mô hình tăng trưởng của Trung Quốc cần nhiều vốn nên chi tiêu cho tiêu dùng chiếm một phần rất nhỏ trong GDP: năm 2010, con số này giảm xuống còn 34%. Điều này chỉ càng làm tăng thêm sự phụ thuộc vào xuất khẩu.

Cơ cấu tài chính của Trung Quốc đã góp phần củng cố mô hình này. Dòng vốn qua biên giới của họ được quản lý chặt chẽ. Trung Quốc đã kiềm chế sự tăng giá của đồng nhân dân tệ, tạo thế cạnh tranh xuất khẩu, bằng cách mua đôla và các ngoại tệ khác với khối lượng lớn, tạo thành một quỹ dự trữ ngoại tệ trị giá 3.200 tỷ USD, chiếm 54% GDP năm 2010 của Trung Quốc.

Hệ thống ngân hàng ở Trung Quốc chịu sự giám sát chặt chẽ của nhà nước. Các ngân hàng nước ngoài chỉ chiếm gần 2% tổng tài sản ngân hàng. Lượng tiền mặt được tạo ra để giữ giá NDT ở mức thấp đã được "thu dọn" bằng việc buộc các ngân hàng phải mua trái phiếu "vô sinh" có giá trị chuyển nhượng thấp, hoặc tăng lượng dự trữ bắt buộc bằng tiền mặt. Lãi suất được ấn định theo hướng tạo thuận lợi cho các công ty nhà nước (thường là các nhà cung cấp độc quyền phục vụ xuất khẩu) nhưng lại cho cổ đông ít lợi tức. Cho vay tiêu dùng vẫn thấp.

Tỷ trọng tăng trưởng của Trung Quốc trong nền kinh tế thế giới cho thấy họ không thể mãi dựa vào sức tiêu dùng của các nước khác. Nguy cơ nợ đọng ở nhiều nước trong thế giới giàu  đồng nghĩa với việc khách hàng nước ngoài của Trung Quốc đang chịu sức ép nặng nề. Và nước này đang hút nốt nhu cầu của phần còn lại của thế giới: thặng dư cán cân thanh toán của Trung Quốc (phép đo tiết kiệm vượt quá giới hạn) tăng trên 10% GDP vào năm 2007, sau đó đã giảm một nửa.

Đây là một nguồn cơn gây căng thẳng: người Mỹ cho rằng chính sách tỷ giá hối đoái của Trung Quốc đem lại cho hàng hóa xuất khẩu của họ một sự hỗ trợ không công bằng, và không có lợi cho công nhân của Mỹ. Chiến lược dựa vào xuất khẩu cũng bắt đầu giảm tác dụng. Người nông dân di cư đến làm việc tại các nhà máy để phục vụ khách hàng nước ngoài của Trung Quốc ngày nay đã khó tìm việc hơn trước kia.

Nếu Trung Quốc muốn tránh được cái bẫy thu nhập trung bình, họ cần phát triển thị trường nội địa. Họ phải đổi từ việc tích lũy các nhà máy, phân xưởng, cầu cảng và các tài sản cố định khác sang cách bố trí vốn và nhân công tinh vi hơn để cho phép các công ty dịch vụ nhỏ phát triển. Sự chuyển đổi này sẽ được trợ giúp bởi hai nhân tố. Khi dân số lao động bắt đầu sụt giảm vào khoảng năm 2015, tỷ lệ tiết kiệm hộ gia đình cũng sẽ giảm, bởi các quốc gia có ít người lao động hơn và tỷ lệ người phụ thuộc lớn hơn thường có xu hướng chi tiêu nhiều hơn.

Và Trung Quốc đã dành một phần lớn trong GDP của mình cho nghiên cứu và phát triển, nhiều hơn các nước khác có mức thu nhập tương đương. Điều này tạo một cơ hội tốt hơn để duy trì tăng trưởng năng suất khi thành quả của việc ứng dụng các công nghệ hiện đạt đến thời điểm tận thu. Nhưng các lĩnh vực khác trong nền kinh tế Trung Quốc vẫn đang vật lộn chống lại sự thay đổi. Ví dụ Ngân hàng Thế giới (WB) xếp Trung Quốc ở vị trí 65 trên tổng số 183 quốc gia tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty tiếp cận tín dụng, thua xa Ấn Độ (đứng vị trí thứ 32).

Các trở ngại cũng rất lớn. Việc chuyển đổi sang một nền kinh tế tập trung vào người tiêu dùng sẽ đồng nghĩa với việc thay đổi toàn bộ các ngành công nghiệp. Mức lương cao ở Trung Quốc, rất cần cho quá trình tái cân bằng này, đã khiến một số việc làm trong ngành dệt may được chuyển sang Việt Nam và Campuchia. Dỡ bỏ các trợ cấp ngầm cho lãi suất và các khoản vay có thể khiến lợi nhuận của các công ty bị thu hẹp và gây phản đối. Các ngân hàng tham gia thực hiện quyết định trên của chính phủ sẽ cần đưa ra những đánh giá tốt hơn, từ chối cho vay tiền đổ vào những ngành công nghiệp thu lời thấp và chuyển số vốn này sang cho các doanh nghiệp mới nhiều hứa hẹn.
-----------------------------

Bị dồn vào chân tường
 

 

Brazil là một ví dụ điển hình cho thấy một quốc gia đang phát triển nhanh chóng bị đâm vào tường.

 

Nền kinh tế nước này đã tăng trưởng ở mức bình quân gần 7%/năm trong những năm 1945 -1980. GDP trên đầu người tăng từ mức bằng 12% của Mỹ lên mức 28%, theo thống kê của Maddison. Nhưng các thành quả này đã đi ngược lại. Nợ chồng chất phải trả cho máy móc nhập khẩu bắt đầu ảnh hưởng tới lãi suất. Các ngành công nghiệp phục vụ thị trường trong nước được bảo vệ bắt đầu tỏ ra không hiệu quả. Một đồng tiền yếu và lương hưu thấp dẫn tới lạm phát và sau đó là siêu lạm phát.

Một loạt cuộc cải cách tiền tệ và tài chính trong những năm 1990 đã giúp kiềm chế lạm phát và chặn đà suy giảm thu nhập. Thu nhập bình quân đầu người ở Brazil hiện ở mức 20% so với ở Mỹ. Nhưng nền kinh tế này cũng phải chịu những bấp bênh như ở Trung Quốc. Đầu tư chiếm 19% GDP, thấp hơn nhiều so với Trung Quốc, và khá thấp so với mức chuẩn ở các nước giàu. Đây là lý do tại sao sản lượng thấp, bên cạnh đó là yếu kém trong hệ thống giáo dục và cơ sở hạ tầng. Nền kinh tế này có xu hướng tăng trưởng khoảng 4%/năm, nhanh hơn các nước giàu nhất nhưng chậm hơn những nước có nền kinh tế thị trường mới nổi tương tự như Brazil.

Đầu tư kém phản ánh tiết kiệm trong nước thấp. Brazil vẫn thường xuyên bị thâm hụt cán cân thanh toán. Sự phụ thuộc vào nguồn vốn nước ngoài đã khiến nước này dễ bị tổn thương trước các cuộc khủng hoảng cán cân thanh toán định kỳ, dù họ có quỹ dự trữ ngoại tệ lên tới 344 tỷ USD để tự lo liệu cho mình trong tương lai. Nợ nước ngoài ròng của Brazil (cả nợ công và nợ tư nhân) đạt 700 tỷ USD, so với tài sản ròng của Trung Quốc đạt 1.800 tỷ.

Cái được của tiết kiệm thấp ở Brazil là tiêu dùng mạnh, chiếm 61% GDP năm ngoái. Cho vay hộ gia đình đã bùng nổ. Một phần vì ngân hàng phát triển của nhà nước BNDES cung cấp các khoản vay được trợ cấp cho các công ty lớn của nhà nước và một số doanh nghiệp khác. Cơ hội hạn chế trong việc cho doanh nghiệp vay như vậy khiến các ngân hàng tư nhân phải tìm nguồn tiền ở chỗ khác.

Nền kinh tế Brazil có hai sức mạnh. Dân số ở độ tuổi lao động đang gia tăng nhanh chóng, và nước này sở hữu nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào khi mà các thị trường mới nổi đang trong quá trình công nghiệp hóa với một tốc độ nhanh chưa từng thấy. Brazil đang cạnh tranh với Australia vị trí nước xuất khẩu đồng quặng nhiều nhất thế giới, hơn nhiều so với Trung Quốc. Diện tích đất trồng mênh mông của Brazil cũng sinh sôi một cách đáng kinh ngạc (tại một số nơi có thể canh tác tới ba vụ mỗi năm), nhờ được hưởng nhiều ánh nắng mặt trời và nước sạch. Các hồ "subsalt" nằm bên dưới lớp muối dày ở ngoài khơi bờ biển phía Đông Nam Brazil chứa ít nhất 13 tỷ thùng dầu.

Sự bùng nổ hàng hóa và việc phát hiện mỏ dầu mới đã giải phóng Brazil khỏi các ràng buộc cán cân thanh toán truyền thống. Ngoại tệ ồ ạt đổ vào, do hấp dẫn bởi tỷ lệ lãi suất cao ở Brazil và khoản lời kỳ vọng một khi dầu bắt đầu chảy. Nhưng việc này cũng tạo ra vấn đề mới: một lượng tiền lớn làm ảnh hưởng tới các nhà xuất khẩu trong nước không hoạt động trong các ngành công nghiệp tài nguyên.

Liều thuốc "giáo khoa" cho "căn bệnh Hà Lan" này là tăng năng suất hoặc giảm chi phí trong các ngành công nghiệp không được hưởng lợi từ sự bùng nổ nguồn lực này. Tháng Tám vừa qua, Chính phủ Brazil cho biết sẽ bãi bỏ các loại thuế lương (thuế bảo hiểm xã hội hay bảo hiểm y tế) trong bốn ngành công nghiệp tuyển nhiều lao động như giày dép, quần áo, đồ nội thất và phần mềm.

Brazil là một trong những nước khó làm kinh doanh nhất, được WB xếp ở vị trí thứ 127 trên tổng số 183 quốc gia. Tiền thuê cơ sở và chi phí nhiên liệu rất đắt đỏ, trong khi đóng cửa một công ty có thể mất nhiều năm trời. Hệ thống thuế phức tạp, cộng thêm các quy định không khớp nhau.

Ảnh minh họa: forbes.com

Lãi suất thực tế ở Brazil nằm trong số những mức cao nhất thế giới. Lãi suất chỉ đạo của ngân hàng trung ương là 12% và có thể còn phải tăng để kiềm chế lạm phát vốn đã vượt qua mục tiêu 4,5%. Lãi suất cao một phần là sản phẩm của tình trạng lạm phát trước đây. Một thói quen tiết kiệm chưa bám rễ ở Brazil, vì vậy, lượng cầu về tín dụng bỏ xa nguồn cung. Tình trạng lỏng lẻo về tài chính cũng góp một phần. Nền kinh tế vận hành vượt quá khả năng. Tỷ lệ thất nghiệp đạt 6%, hiếm khi thấp hơn. Ngân sách của Brazil luôn thặng dư. Nhưng một thị trường nợ dài hạn sẽ đòi hỏi một cam kết duy trì kiểm soát lương trong lĩnh vực nhà nước và lương hưu.

Brazil hy vọng các mỏ dầu mới phát hiện sẽ được khai thác theo cách hỗ trợ chứ không gây ảnh hưởng xấu tới các ngành công nghiệp khác. Chính phủ yêu cầu Petrobras, gã khổng lồ dầu mỏ do nhà nước Brazil kiểm soát có độc quyền đối với mỏ subsalt, nên mua hầu hết các nguồn cung tại Brazil.

Eike Batista, ông trùm trong ngành khai mỏ và hậu cần, đang xây dựng một khu cảng đầy đủ hạng mục, có cả xưởng đóng tàu (sau công ty Hyundai của Hàn Quốc) để phù hợp với các quy định địa phương. Ông nói: "Nhu cầu của Petrobras sẽ lấp đầy hai xưởng đóng tàu". Một khu cảng hiện đại sẽ khuyến khích các nhà sản xuất nước ngoài xây dựng các nhà máy dọc bờ biển Brazil và phục vụ cho thị trường trong nước. "Brazil sẽ đầy hàng hóa". Nhưng những người khác lo ngại Brazil sẽ bị hấp dẫn bởi một mô hình công nghiệp hóa hướng nội và có ảnh hưởng của nhà nước từng dẫn tới thất bại trước đó.

Brazil và Trung Quốc cần có những bước chuyển đổi khác nhau nếu họ muốn duy trì tốc độ tăng trưởng của mình. Brazil phải tăng tiết kiệm và đầu tư nhiều hơn; Trung Quốc lại cần tiêu dùng nhiều hơn. Brazil giàu tài nguyên; Trung Quốc lại đói tài nguyên. Brazil thiếu những con đường bộ và tuyến đường sắt tốt; trong khi một số con đường của Trung Quốc vẫn còn ít người qua lại. Brazil là một quốc gia trẻ trong khi Trung Quốc đang già đi. Arminio Fraga, một cựu Thống đốc ngân hàng trung ương Brazil, chủ tập đoàn đầu tư Gavea tại Rio de Janeiro, đùa rằng: "Có lẽ họ nên pha trộn với nhau".

Con đường gập ghềnh của Ấn Độ

Các thách thức chính của Ấn Độ là sự pha trộn những điều mà Brazil và Trung Quốc đang phải đối mặt. Giống như Trung Quốc, Ấn Độ được hưởng một tỷ lệ tăng trưởng cao hơn mức thông thường của nền kinh tế thị trường mới nổi, khoảng 8%/năm. Và con số này sẽ còn cao hơn nữa: bởi Ấn Độ hiện nghèo hơn Trung Quốc, nên họ còn có thể tiến bộ nhiều hơn. Đầu tư chiếm 38% GDP. Đa số lấy từ túi của chính các công ty, một triệu chứng của một hệ thống tài chính chưa chín muồi. Hầu hết các công ty lại không thể dựa vào nguồn vốn từ bên ngoài, dù các tập đoàn lớn như Tata có thể kêu gọi đầu tư trên các thị trường vốn quốc tế.

Giống Brazil, Ấn Độ đang rất cần những con đường tốt hơn để kết nối các thị trường nội địa ở những nơi rất xa xôi trong lòng mình. Đây là một quốc gia trẻ, với dân số ở độ tuổi lao động tăng 1,7%/năm cho tới năm 2015, mức tăng nhanh hơn ở Brazil. Nhưng quá nhiều người trong số này không được đào tạo tốt. Giống như ở Brazil, các công ty thường phải đào tạo thêm cho các nhân viên mới trước khi họ có thể tự xoay sở. Nạn tham nhũng đang hủy hoại các dự án cơ sở hạ tầng. Nền kinh tế đang phát triển quá nóng và phải chứng kiến thâm hụt cán cân thanh toán.

Điều này cho thấy một điểm yếu nghiêm trọng hơn trong các thị trường mới nổi. Trong quá khứ, họ đã không giỏi trong việc quản lý cầu nội địa. Việc dựa vào xuất khẩu cho phép họ vừa tăng trưởng mà vẫn tiết kiệm. Hiện giờ, khi các nền kinh tế của thế giới giàu phải chật vật và ngày càng khắc khổ, làm nổi lên nguy cơ về những yếu kém từng dẫn tới các cuộc khủng hoảng của thị trường mới nổi trong quá khứ: chi tiêu công thái quá, tăng trưởng tín dụng nhanh và lạm phát cao. Theo ông Raghuram Rajan, một cựu giám đốc kinh tế của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế có thu nhập trung bình sang nền kinh tế giàu phụ thuộc vào các chính sách tiền tệ, tài chính và quản lý tốt.

Nỗi lo ngại tái diễn vấn đề tại các nền kinh tế đầy nợ nần trong thế giới giàu đồng nghĩa với việc Brazil và Ấn Độ phải giảm dần cho tới chấm dứt các sức ép lạm phát ở nước mình. Trung Quốc đã vượt qua phép thử lớn đầu tiên về cầu ở thế giới giàu khi họ đã tăng tín dụng ngân hàng thêm 1/3 trong năm 2009. Đây là một biện pháp kích thích đáng hoan nghênh đối với nền kinh tế nước này và toàn cầu, nhưng ngày càng có nhiều lo ngại về độ khôn ngoan của các khoản cho vay. Nợ tăng vì chính quyền địa phương tài trợ cho cơ sở hạ tầng là rất đáng lo ngại.

Sai lầm Trung Quốc cho thấy tiêu dùng có tầm quan trọng trong việc tái cân bằng đất nước. Các con đường vận tải tốt hơn, kết nối các thành phố duyên hải giàu có với những khu vực miền Tây nghèo khó hơn, rất cần để phát triển thị trường nội địa. Nhưng những người hoài nghi thì thấy những con đường không có xe hơi, tàu hỏa ít khách và những tòa nhà trống rỗng là một sự lãng phí đầu tư.

Một số báo cáo cho biết 2.000 tỷ nhân dân tệ tiền cho chính quyền địa phương vay đã trở thành những khoản đầu tư tồi. Đáng lo ngại là một số nhà đầu tư nước ngoài từng đua nhau gửi tiền vào các ngân hàng Trung Quốc nay đang lén rút chân đi. Ngân hàng Mỹ, do gặp vấn đề với thị trường trong nước của mình, đã bán một nửa cổ phần tại Ngân hàng Xây dựng Trung Quốc.

Tuy nhiên, ổn định tổng cầu có lẽ dễ hơn là phải giải quyết xung đột xã hội hay tìm cách thoát khỏi cái bẫy đình trệ về công nghiệp ở các nước có thu nhập trung bình. Theo Dani Rodrik, thuộc trường Đại học Harvard, điều này không chỉ tùy thuộc vào một cỗ máy kinh tế vận hành có tốt hay không; mà còn phụ thuộc vào việc "nỗi đau" bị điều chỉnh có được chia sẻ công bằng hay không. Các xã hội bị chia rẽ sâu sắc bởi các giai tầng hoặc các phe phái đối địch thường tụt lùi sau thay đổi kinh tế. Các nền dân chủ với các quy định và thủ tục giải quyết tranh chấp và đền bù cho người thiệt hại có xu hướng làm tốt hơn.

Ông Rodrik so sánh sự bật nảy của Hàn Quốc sau cuộc khủng hoảng Đông Á năm 1998 (cũng như trong các khó khăn trước đó) với thời kỳ suy sụp kinh tế mà Brazil và các nước Mỹ Latinh khác phải trải qua trong những năm 1980. Nền công nghiệp Hàn Quốc đã được thử sức trong các thị trường xuất khẩu, nên có thể tạo ra một đà phục hồi dựa trên sức mạnh công nghiệp của mình.

Brazil không có sức mạnh này. Nhưng Hàn Quốc có thể phục hồi nhanh hơn còn là vì mỗi nhóm lợi ích đều nhất trí nhận một phần nỗi đau suy thoái. Chính phủ Hàn Quốc nói họ sẽ làm hết mình để giúp đất nước vượt qua khủng hoảng nhưng các doanh nghiệp cũng phải nỗ lực bằng cách tránh để rơi vào tình trạng ngừng sản xuất và các nghiệp đoàn phải giảm bớt các đòi hỏi tăng lương. Ngược lại tại Brazil, ai cũng cố gắng đẩy cái khó cho người khác. Lạm phát giảm và GDP trên đầu người ở Brazil không hề tăng trong 15 năm liền.

Theo ông Rodrik, Trung Quốc có thể có nền kinh tế mạnh hơn nhưng Brazil và Ấn Độ dường như sẽ giỏi hơn trong cách đối phó với những chuyển động xã hội nảy sinh khi trở thành quốc gia có mức thu nhập trung bình. Cả ba gã khổng lồ thị trường mới nổi này sẽ phải nỗ lực rất nhiều để tránh cái bẫy thu nhập trung bình. Thành quả kinh tế mới đây của họ rất tốt nhưng kinh nghiệm cho thấy sẽ có sự thụt lùi, suy giảm. Nhưng thế giới giàu bị sa lầy từ khủng hoảng này tới khủng hoảng khác, khoảng cách thịnh vượng sẽ sớm được thu hẹp. Việc Mỹ đòi quyền lãnh đạo kinh tế có vẻ ngày càng nhàm, và một trong số các ưu tiên lâu nay của họ - sở hữu đồng tiền dự trữ chính của thế giới - đang bị đe dọa./.

  • Châu Giangdịch từ The economist // Nguồn: Tuần Việt Nam

 

 

 

 

 

  • 10 siêu đại gia Nga trong danh sách đen sẽ bị Mỹ trừng phạt?
  • Liên minh 04 nước đối phó Trung Quốc ở châu Á-TBD?
  • Mỹ - Trung: Đối thủ tiềm ẩn, sẵn sàng 'rút kiếm'
  • Mỹ- Trung và quan hệ 'nước lớn kiểu mới'
  • Trung Quốc chịu “mở cửa” kiểm toán cho Mỹ
  • Thế giới thực sự có bao nhiêu tỷ phú?
  • Kinh tế thế giới bớt u ám nhờ Đông Á
  • Obama và trò chơi 'hai mặt của đồng tiền'
  • Các thị trường mới nổi: “Cứu tinh” của kinh tế thế giới?
  • Các nền kinh tế mới nổi “ngấm đòn” khủng hoảng nợ châu Âu
  • "Chiếm phố Wall": Mầm mống khủng hoảng ở Mỹ
  • Kinh tế thế giới vẫn như “đèn dầu hiu hắt”
  • Toàn cầu hóa và tương lai các nền kinh tế mới nổi
  • Kinh tế thế giới và nguy cơ rơi vào hố đen
  • Công nghiệp thép thế giới đang lâm vào tình trạng rớt giá
  • Chiến tranh thương mại Trung-Mỹ có nguy cơ bùng phát