Nhật Bản là thị trường tiêu thụ cao su tự nhiên lớn thứ ba trên thế giới (sau Mỹ và EU) với các chủng loại được tiêu thụ chủ yếu là RSS 3 và TSR 20. đây là một thị trường tiềm năng và có ảnh hưởng rất lớn tới thị trường cao su thế giới.
Đặc điểm thị trường cao su Nhật Bản:
Nhật Bản nhập khẩu các loại cao su tự nhiên chủ yếu từ các cao su tiểu điền sản xuất từ Thái Lan, Indonesia và Malaysia.
Việc nhập khẩu cao su tự nhiên để sản xuất lốp xe ôtô phụ thuộc rất nhiều vào kế hoạch sản xuất và tiêu thụ xe ôtô của Nhật Bản. Theo thống kê của Hải quan Nhật Bản, 10 tháng năm 2008 số lượng ôtô tiêu thụ tại Nhật Bản chỉ đạt 4,4 triệu chiếc, giảm 2,8% so với cùng kỳ năm ngoái do khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Đối với Mỹ, số lượng ôtô tiêu thụ cũng chỉ đạt 11,8 triệu chiếc, giảm 4,7%. Đối với EU, chỉ đạt 12,1 triệu chiếc, giảm 3,1%. Ngoài ra, giá mặt hàng cao su cũng bị tác động và giảm theo cùng với sự giảm giá của mặt hàng dầu thô (hiện ngày 11/12/2008 chỉ còn 43 USD/thùng).
Dự trữ cao su thô ở Nhật Bản tính tới ngày 20/11/2008 đã lên tới 7.300 tấn, tăng 38% so với chỉ 10 ngày trước đó. Tuy nhiên, mức dự trữ đó vẫn thấp hơn khoảng 29% so với cùng kỳ năm trước.
Nhập khẩu:
Nhật Bản nhập khẩu các loại cao su gồm: cao su tự nhiên và cao su tổng hợp để sản xuất lốp ôtô và các sản phẩm cao su phục vụ tiêu dùng và sử dụng trong các ngành công nghiệp khác như: đế giày, dép cao su, găng tay cao su, ống cao su…
Hàng năm, Nhật Bản nhập khẩu khoảng 2 tỷ USD cao su tự nhiên để phục vụ cho ngành công nghiệp ôtô. Ngoài ra, Nhật Bản cũng nhập khẩu khoảng 550 triệu USD cao su tổng hợp và cao su hỗn hợp phục vụ cho các ngành công nghiệp sử dụng cao su khác.
Thị phần cao su xuất khẩu của Việt nam tại Nhật Bản chỉ đạt khoảng 1,4% với kim ngạch khá khiêm tốn, khoảng 30 triệu USD/năm. VN chưa xuất khẩu nhiều chủng loại cao su sang Nhật Bản, chủ yếu là cao su khối SVR 3L. Trong khi đó, Nhật Bản chủ yếu nhập khẩu cao su ly tâm (RSS 3 và TSR 20) để sản xuất lốp ôtô thì VN lại xuất khẩu sang Nhật rất ít so với Thái Lan, Inđônêsia và Malaysia. Thị trường cao su Nhật Bản là tiềm năng đối với các doanh nghiệp Việt Nam.
Cơ cấu nhập khẩu cao su tại Nhật Bản như sau:
- Cao su xông khói RSS: Thái Lan chiếm 95%, Inđônêsia chiếm 2,7%, Malaysia chiếm 1,5% và Việt Nam chiếm 0,2%;
- Cao su TSNR: Inđônêsia chiếm 79%, Thái Lan chiếm 19%, Việt Nam chiếm 1,2% và Malaysia chiếm 0,6%;
- Cao su tự nhiên dạng khác: Thái Lan chiếm 77,2%, Inđônêsia chiếm 14,6%, Việt Nam chiếm 5% và Malaysia chiếm 0,8%.
Thuế suất nhập khẩu cao su của Nhật Bản và các quy định khác:
- Cao su xông khói RSS: Thuế nhập khẩu 0% + VAT 5%
- Cao su TSNR và cao su tự nhiên dạng khác: Thuế nhập khẩu 0% + VAT 5%
- Cao su tổng hợp và hỗn hợp khác: Thuế nhập khẩu 0% + VAT 5%
Những điểm cần lưu ý khi xuất khẩu cao su vào thị trường Nhật Bản:
- Thị trường cao su tại Nhật Bản có mức tiêu thụ cao và ổn định, nhưng người Nhật lại yêu cầu rất cao về chất lượng và thời gian giao hàng. Ngoài ra, các công ty xuất khẩu phải đảm bảo sản phẩm không gây hại đến môi trường.
- Tăng cường xúc tiến và quảng bá mặt hàng cao su tự nhiên và các sản phẩm cao su thông qua các hội chợ, triển lãm tại Nhật Bản, các tổ chức xúc tiến thương mại và Thương vụ để tìm kiếm khách hàng mới;
- Để làm ăn có uy tín và lâu dài với người Nhật, các công ty xuất khẩu cần phải có định hướng kinh doanh lâu dài, kiên trì trong bước đầu lập mối quan hệ, năng lực sản xuất và chất lượng ổn định và luôn giữ uy tín trong kinh doanh;
- Thông thường, người Nhật rất thận trọng với lô hàng đầu tiên, nên thường đặt hàng với số lượng không lớn lắm, nhưng sẽ tăng dần sau đó nếu doanh nghiệp của ta xuất khẩu có uy tín và đảm bảo chất lượng sản phẩm xuất khẩu;
- Đa dạng hóa cơ cấu sản phẩm cao su xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản, đặc biệt là các sản phẩm cao su đã qua chế biến như: săm lốp, găng tay, phao cứu sinh…để tạo sản phẩm có giá trị gia tăng cao và tăng kim ngạch xuất khẩu sang Nhật Bản;
- Đối với các cơ quan hoạch định chính sách, cần mở rộng diện tích trồng cao su và khuyến khích phát triển cao su tiểu điền để phù hợp với chủng loại mà thị trường Nhật Bản yêu cầu;
- Tại Nhật Bản, đa phần giao dịch cao su đều thông qua Sở giao dịch hàng hóa TOCOM. Vì vậy, các doanh nghiệp xuất khẩu nên tiếp cận với www.tocom.or.jp
Trạng thái xuất siêu trong tháng 7 đã không thể kéo dài thêm. Trong nửa đầu tháng 8, cán cân thương mại hàng hóa quốc tế của Việt Nam lại ghi nhận mức thâm hụt xấp xỉ 256 triệu USD, theo số liệu của Tổng cục Hải Quan.
Ghi lại ý kiến của ông Yoshida Sakae, Giám đốc điều hành Văn phòng TPHCM của Tổ chức Thúc đẩy ngoại thương Nhật Bản (Jetro), về cách thức làm ăn với người Nhật và thâm nhập thị trường Nhật tại hội thảo “Hội nhập kinh tế thế giới”, do Công ty Điện tử Minh Trân tổ chức tuần qua.
Hiện số lượng các sản phẩm của Việt Nam vào thị trường Hồi giáo còn quá ít, do các doanh nghiệp chưa có nhiều thông tin cũng như chưa quan tâm đúng mức đến việc phát triển các sản phẩm đáp ứng yêu cầu.
Trung Quốc vẫn là một thị trường trọng điểm hàng đầu và là đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam. Với một thị trường tiềm năng lớn như vậy, DN VN sẽ có nhiều cơ hội để phát triển những mặt hàng chủ lực. Song, thị trường này vẫn còn tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Sau thảm hoạ động đất và sóng thần tháng 3-2011, nhu cầu tiêu dùng của Nhật Bản bị sụt giảm trong ngắn hạn, nhưng dự báo sẽ tăng mạnh đối với một số hàng hoá trong thời gian khoảng một năm sau đó.
Ngày 16/12, tại Hà Nội, các doanh nghiệp (DN) Việt Nam và đoàn DN Hồng Kông đang ở thăm nước ta đã tham dự hội thảo "Hồng Kông- đối tác cho thành công của bạn" do Phòng Công nghiệp và Thương mại Việt Nam (VCCI) tổ chức.
Sắp tới, cá tra Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ sẽ gặp khó khăn với quy định về nhập khẩu thịt; gỗ phải truy xuất nguồn gốc với đạo luật Lacey; dệt may có thể bị liên đới với từ các vụ kiện chống lại Trung Quốc,...
Trong bài phân tích về những thách thức và cơ hội đối với xuất khẩu của Chile sang châu Á và các thị trường mới trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu, Cơ quan xúc tiến xuất khẩu của Chính phủ Chile (ProChile) nhận định, Việt Nam là thị trường đầy tiềm năng của nước này.
Năm 2006-2007, GDP của Ấn độ tăng 9,6%. Năm 2007-2008, mức tăng là 9%. Tuy nhiên, Ủy ban kế hạch Ấn độ chỉ dự kiến (dự kiến mới nhất tháng 11/2008) GDP năm 2008-2009 tăng 7%. Quý III/2008 (từ tháng 7-9/2008), GDP chỉ tăng 7,6%, chậm nhất trong vòng gần 4 năm trở lại đây.
Đây là quy định trong Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) vừa được Chính phủ vừa ban hành. Theo đó, từ 1/1/2009, thuế suất chung áp dụng cho các doanh nghiệp là 25% thay cho mức cũ 28%.
Bộ Tài chính vừa công bố Biểu thuế nhập khẩu hàng hoá có xuất xứ từ Hà Quốc theo lộ trình thực hiện cam kết Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN - Hàn Quốc (AKFTA). Theo đó hàng nhập khẩu từ Hàn Quốc sẽ được đồng loạt giảm thuế trong giai đoạn từ 2009 – 2011.
Vụ Thị trường châu Âu (Bộ Công thương) cho biết, thời gian qua một số doanh nghiệp Việt Nam ký hợp đồng xuất khẩu cá ba sa và thủy sản khác cho Công ty Hoogland Foods BV và Công ty Star Procurement Inc (Starcom Co Inc) của Hà Lan, nhưng khi thanh toán tiền hàng đã gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí có trường hợp đã giao hàng mấy năm nay nhưng hiện vẫn chưa nhận được tiền thanh toán.
Khi kinh doanh tại các thành phố lớn ngày càng cạnh tranh gay gắt cùng nhu cầu tiêu dùng giảm, các đại gia điện máy đã mở cuộc "tiến quân" về tỉnh lẻ để “chiều” người dân ở quê.
Nhóm hàng điện tử viễn thông vẫn dẫn đầu nhóm ngành hàng xuất khẩu có “hàm lượng” FDI cao nhất và giá trị xuất khẩu thuộc hàng cao nhất. Tuy nhiên, hàm lượng FDI trong top 10 đã có sự sụt giảm đáng kể.
Tiểu thương tại đây hàng năm đều cam kết về nguồn gốc, xuất xứ sản phẩm, không bán hàng lậu và hàng nhái. Tuy nhiên, phần lớn đều cho rằng điều này rất khó khả thi.
Cục thống kê Tp.HCM vừa công bố chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 7/2014 của thành phố đã tăng 0,12% so với tháng trước và tăng 5,47% so với cùng tháng năm trước. Như vậy, tính từ đầu năm, CPI đã tăng 1,22%, cao hơn gấp đôi mức tăng của năm 2013 (0,66%).
Hiện nay, cuộc xâm lấn của hàng giả đã khiến người ta phải nhìn nhận lại tiêu chí của sự xa xỉ và khiến nhà chức trách các nước trên thế giới đau đầu tìm cách dẹp bỏ.
Thành tích xuất khẩu của Việt Nam lẽ ra sẽ còn cao và hiệu quả hơn nữa nếu quản lý nhà nước khắc phục được những hạn chế về cơ sở hạ tầng, tệ tham nhũng, tính khó tiên liệu của chính sách, và tạo giá trị gia tăng cho hàng hoá.
Bằng nhiều cách, hàng hóa Thái Lan đang ngày càng chiếm lĩnh thị trường Việt Nam và trong tương lai không xa có thể là một thách thức lớn cho hàng Việt.
Giá cá trên thị trường toàn cầu đã tăng lên mức cao nhất mọi thời đại do Trung Quốc có nhu cầu ngày càng lớn đối với những loại hải sản cao cấp như cá ngừ và hàu, trong khi sản lượng đánh bắt có chiều hướng giảm sút.
Các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá bán lẻ ở Việt Nam vẫn là lĩnh vực hấp dẫn nhất. Dù không như đồn đoán ban đầu các tập đoàn lớn sẽ tràn vào nuốt chửng thị trường Việt Nam, nhưng chỉ nhìn vào tốc độ mở rộng của Big C, Metro, Lotte... vừa qua cho thấy sức ép cạnh tranh đang nóng lên từng ngày.
Lại tương tự giá thuốc, giá thực phẩm chức năng cũng đang “nhảy múa thoải mái” khi giá mua vào với giá bán ra chênh nhau tới cả chục lần! Thị trường thực phẩm chức năng đang phát triển mạnh mẽ. Nhưng các quy định về quản lý thực phẩm chức năng đang tỏ ra quá lạc hậu. Phần quản lý giá của mặt hàng này đang bị thả nổi hoàn toàn.
Tháng 4, nhập khẩu đạt con số 6,95 tỷ USD, đưa tổng kim ngạch nhập khẩu 4 tháng qua lên hơn 24,8 tỷ USD. Với kim ngạch xuất khẩu 4 tháng là 20,1 tỷ USD, như vậy, nhập siêu những tháng đầu năm đã lên khoảng 4,7 tỷ USD, tương đương với hơn 23% kim ngạch xuất khẩu. Với cách làm như hiện nay, các chuyên gia cho rằng, mục tiêu kiềm chế nhập siêu dưới 20% trong năm nay là rất khó.
Mark Zimmeran – cựu cố vấn Chủ tịch Phòng thương mại của Mỹ ở Nhật Bản đã viết trong cuốn sách nổi tiếng “Làm ăn với người Nhật như thế nào” của ông: “việc nghiên cứu kỹ càng và nghiêm túc tâm lý người Nhật và cấu trúc xã hội của nước Nhật là cực kỳ cần thiết cho việc làm ăn có hiệu quả với người Nhật”.
Kim ngạch xuất khẩu quý I/2010 ước đạt 14 tỷ USD, giảm 1,6% so với cùng kỳ 2009. Kim ngạch nhập khẩu 3 tháng ước đạt 17,525 tỷ USD, tăng 37,6% so với cùng kỳ năm 2009. Trong đó, nhóm hàng nguyên nhiên vật liệu cần nhập khẩu tăng 35,3%; nhóm hàng cần kiểm soát nhập khẩu dự báo tăng khoảng 60,2% và nhóm hàng cần hạn chế nhập khẩu cũng tăng 33% so với cùng kỳ năm ngoái.
Sự phục hồi của kinh tế trong nước sẽ khiến nhu cầu nhập khẩu hàng hóa tăng, đặc biệt việc thực hiện giải ngân vốn FDI được dự báo tăng cao sẽ khiến nhập khẩu máy móc, thiết bị phục vụ cho hoạt động đầu tư, xây dựng và sản xuất cũng sẽ tiếp tục gia tăng mạnh. Dự báo kim ngạch nhập khẩu năm 2010 ước đạt 74,5 tỷ USD, tăng 6,5% so với năm 2009.
Hiệp định tự do thương mại ASEAN-Trung Quốc (ACFTA) về nguyên tắc có hiệu lực từ 01/01/2010, có lộ trình cắt giảm tới gần 7.000 dòng thuế. Indonesia đã yêu cầu đàm phán lại với TQ về việc hoãn thực thi ACFTA. Việt Nam hầu như vẫn chưa có một bộ hàng rào kỹ thuật đầy đủ cho các ngành sản xuất trong nước. Mối lo nhập siêu gia tăng từ TQ và mối lo nhiều Doanh nghiệp VN mất thị trường nội địa là có cơ sở....
Theo Tổng cục Thống kê, nhập siêu năm 2009 ước tính lên tới 12,246 tỷ USD, con số này thấp hơn nhiều mức nhập siêu thực hiện lên tới 18,029 tỷ USD của năm 2008, nhưng tăng gần 250 triệu USD so với mục tiêu đề ra.
Để nâng cao giá trị gia tăng cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam, góp phần phát triển bền vững nền kinh tế trong quá trình tham gia chuỗi giá trị cung ứng toàn cầu với những tiêu chuẩn ngày càng ngặt nghèo mà thị trường đặt ra, thì Việt Nam còn nhiều việc phải làm...
Xuất khẩu khoảng 25% tổng sản lượng gạo hàng năm, nhưng giá gạo xuất khẩu của Việt Nam ngày càng tụt dốc quá xa so với của Thái Lan trong thời gian qua, và những người nông dân vẫn không được hưởng lợi tương ứng với công sức của mình bỏ ra,....