Những phụ nữ nghèo thuộc một nhóm người bản xứ ở Bolivia có nồng độ a-xít béo omega-3 trong sữa cao hơn so với phụ nữ ở Mỹ.
Nghiên cứu được đăng trên tạp chí Maternal and Child Nutrition cho thấy phụ nữ Tsimane, có chế độ ăn chủ yếu là lương thực được trồng tại địa phương, thịt thú rừng, cá nước ngọt, đã có tỷ lệ a-xít docosahexaenoic (DHA) trong sữa mẹ cao hơn. Đây là a-xít béo omega-3 rất quan trọng đối với sự phát triển nhận thức và thị lực đứa trẻ.
Tỷ lệ DHA trong sữa mẹ giảm không đáng kể trong 2 năm đầu sau đẻ, đây là giai đoạn não đứa trẻ phát triển tối đa và cần DHA nhiều nhất. Điều này cũng đúng với phụ nữ Mỹ. Việc kéo dài thời gian nuôi con bằng sữa mẹ ở các bà mẹ Mỹ và Tsimane có thể cung cấp cho đứa trẻ nguồn DHA ổn định trong giai đoạn phát triển não quan trọng này.
Tỷ lệ a-xít béo omega-6/omega-3 của các bà mẹ Tsimane là 4/1, gần với ước tính của tổ tiên hơn là tỷ lệ ở phụ nữ Mỹ. Tỷ lệ a-xít béo omega-6/omega-3 trong chế độ ăn ở các nước công nghiệp hóa thay đổi từ 10/1 tới 20/1, phần lớn là do không có cá tươi, thường xuyên ăn thực phẩm chế biến sẵn và nhiều dầu thực vật như a-xít linoleic (omega-6), cũng như a-xít béo trans. Mức omega-6 cao này làm tăng nguy cơ béo phì, viêm nhiễm, bệnh tim mạch, cản trở sự tổng hợp DHA và các a-xít béo omega-3 khác.
Tỷ lệ DHA trung bình trong sữa của các bà mẹ Tsimane cao gấp 400 lần so với tỷ lệ trong sữa của các bà mẹ Cincinnati, trong khi tỷ lệ a-xít linoleic và a-xít béo trans tương ứng thấp hơn 84% và 260%.
Kết quả nghiên cứu nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đưa ra các câu hỏi về sữa công thức cho trẻ nhỏ, nồng độ a-xít béo nên dựa vào sữa của các bà mẹ Mỹ. Các khuyến nghị dinh dưỡng đối với trẻ nhỏ nên tính theo nhu cầu a-xít béo dài ngày mà sữa mẹ có thể cung cấp một cách tự nhiên”.
(Hoàng Thái // Futurity)