Trước khi Lamborghini Miura ra đời năm 1967, nhiều chiếc xe thể thao khác đã đạt đến tầm cao về tính năng và vận hành. Nhưng chỉ có Miura đáp ứng được những tiêu chí của một mẫu hình siêu xe hiện đại. Đó là tốc độ cao, thiết kế đột phá bất ngờ với nhiều sáng kiến về mặt kỹ thuật công nghệ.
Ferruccio Lamborghini bắt đầu viết nên cuốn lịch sử của thương hiệu mang tên mình bằng việc chiêu mộ Giotto Bizzarrini - cha đẻ của mẫu xe huyền thoại Ferrari GTO, và là một trong những người kỹ sư đã từng làm việc tại Ferrari - để phôi thai ra thế hệ động cơ V12 có 4 cam hoàn toàn mới, dung tích ban đầu là 3,5l.
Chiếc xe đầu tiên ra đời và được đặt tên là 350GT, có những đặc điểm khác thường theo đánh giá của hầu hết giới chuyên môn và người tiêu dùng đương thời.
Đến năm 1967, thế hệ cải tiến của loại động cơ đó được sử dụng cho một mẫu xe hoàn toàn mới, mang tính cách mạng là chiếc Lamborghini Miura.
Lần đầu tiên ra mắt trước công chúng vào tháng 3/1966 tại Geneva (Thụy Sĩ), Miura là sản phẩm trí tuệ của 7 kỹ sư trẻ, nhưng thực tế là người có công lớn nhất trong việc thiết kế mẫu xe này lại là Marcello Gandini - lúc bấy giờ mới 22 tuổi.
Dưới sự chỉ đạo của kỹ sư người New Zealand, Bob Wallace, chassis của Miura được điều chỉnh để có thể thích ứng được sức mạnh của động cơ và yêu cầu về tính năng đặt ra. Bên cạnh đó là hệ thống treo xương đòn kép cả 4 bánh - công nghệ tối ưu nhất trên xe đua truyền thống.
Động cơ đặt giữa theo phương nằm ngang khiến cho thân xe trở nên gọn gàng. Đây là một giải pháp kỹ thuật thông minh mà chưa có hãng xe nào áp dụng ngoại trừ Austin Mini.
Thông số kỹ thuật
Giá bán: khoảng 5,5 tỉ đồng (308.000USD) Động cơ: V12, dung tích 4l, 4 cam, nằm ngang Công suất cực đại: 370 mã lực tại 7.700 vòng/phút Truyền động: hộp số sàn 5 tốc độ Hệ thống treo: độc lập cả 4 bánh |
Những bản vẽ phác thảo còn cho thấy nắp máy bằng kính và có 3 ghế, ghế lái ở giữa và hai ghế hai bên ở hàng phía sau. Mặc dù các đặc điểm đặc biệt đó không được đưa vào ứng dụng trên mẫu xe sản xuất thương mại, nhưng đã có một vài mẫu xe về sau lấy cảm hứng từ thiết kế này, McLaren F1 nổi tiếng là một ví dụ. Cửa sổ phía sau kiểu mái chớp cũng là thiết kế mới lạ được sử dụng đầu tiên trên thế giới.
Các thông số kỹ thuật của xe vẫn còn ấn tượng: một bộ khung nhẹ, hệ thống treo độc lập, phanh đĩa cả 4 bánh và động cơ V12 đầy uy lực. Với công suất 350 mã lực, chiếc xe có thể đạt tốc độ tối đa gần 290km/h - một con số hiếm có mẫu xe thương mại nào có được. Tất cả được “bao bọc” trong một “tấm áo” bằng nhôm.
Sau hàng loạt những cải tiến, một thế hệ Miura mới đã ra đời năm 1968 và được gắn thêm chữ ‘S’ - viết tắt của “Spinto” (tiếng Anh có nghĩa là tuned). Phiên bản này được trang bị động cơ 370 mã lực, phanh cải tiến và hàng loạt các nâng cấp khác.
Nhanh hơn, sang trọng hơn và an toàn hơn, Miura S thực sự là một cuộc bứt phá về mọi mặt so với mẫu xe nguyên gốc với khả năng tăng tốc 0-100km/h trong thời gian dưới 5,5 giây và tốc độ tối đa đạt 285km/h.
Chiếc xe minh họa trong bài này là một trong những phiên bản Miura ‘S’ được sản xuất vào tháng 2/1970 với ký hiệu P400 S. Nó có gam màu truyền thống của mẫu xe nguyên bản, với vỏ xe màu đỏ với nội thất màu xanh./.